29


"Nhất ẩm, Nhất Trác” Từ Âu Sang Á


Si-yeou-ki
(Saigon – Paris – Bruxelles - Rome - Istanbul - Saigon)
(29 avril – 3 juillet 1963)
Tây du ký (29-4 đến 3-7-1963).

Hôm nay 12-6-1978, ngồi đánh máy mấy trang truyện cũ nầy, và lật hồ sơ buổi Tây Du ký năm trước xem lại, bồi hồi và bàng hoàng như vừa tỉnh một giấc chiêm bao êm đẹp; mười lăm năm đã trôi qua, 1963-1978, mau quá.
29-4-1963 - Chuyến máy bay Air France kỳ 30 avril không có, nên dời cho mình lên đường hôm nay. Lòng nôn nao đã mấy bữa khó ăn khó ngủ, vừa 8 giờ tối đã gọi taxi cùng với Bảo và mẹ Bảo, với một xách tay lớn, đưa nhau lên hãng máy bay tại nhà hàng Caravelle, đường Tự Do. 9 giờ có xe ca lớn chở năm ba bộ hành lèo tèo lên sân bay Tân Sơn Nhứt thì đã chực sẵn để đưa lên đường, ông Phạm Biểu Tâm, bác sĩ, có thực tâm và giúp mình nhiều việc nhưng cho đến nay mình chưa báo đáp được chút gì, và bác sĩ Nguyễn Ngọc Nhuận, bạn học cũ trường Chasseloup, đến đưa để nhờ mua thuốc vì Sài Gòn không có. Từ giã lẹ vợ con. 10g50 máy bay cất cánh, 12 giờ khuya đến Bangkok, hãng buộc hành khách xuống sân để phi cơ tiếp nhận xăng, nực cười con mắt nhắm con mắt mở, đứng giữa sân bỗng nghe tiếng ai kêu tên mình thật lớn; “Sển! “. Mừng quá tưởng đâu tha hương ngộ cố tri, té ra đó là anh khổ lực Tiều Châu đẩy xe chở hàng cho hãng gọi thằng từng Tiều Châu khác trùng tên với mình, Sển ở Sài Gòn số ít, Sển ở Thái Lan, nhiều như tôm ươn ế ẩm buổi chợ chiều. Cu-li đẩy xe ở đây cũng Sển nầy Sển nọ. Và cũng nực cười cho nhân vị một tên dân Việt xuất xứ. Một đàng căn dặn ở trên nói xuống, một hai khi ra nước ngoài, hãy giữ thể thống, hãy trọng nhân vị. Nhân vị gì khi xuất ngoại, tuy có tiền mà không mua được đô la theo yêu cầu để đủ xây xài.
Tại ga sân bay Bangkok, việc đầu tiên là nếm mùi ngó khách lạ uống rượu và cà phê mà mình ngó miệng đủ no. 1 giờ khuya hành khách lên tàu, bay thống thét, 4 giờ sáng tới Karachỉ, nghỉ đây một giờ; mình không xuống ga, ở lại trên tàu mặc cho lao công quét dọn; kế bay qua Téhéran, thì trời vừa rạng sáng. Cà phê ở đây ngon đặc biệt, nhưng khen phò mã tết áo là thừa, đâu phải cà phê xứ mình nữa. Kế bay qua Rome, nghỉ cánh một giờ, rồi bay thẳng tới Orly là 12 giờ 30. Buổi cơm dọn trên tàu, đã không ngon thêm phá bụng.
Thứ ba 30-4 - Tàu tới ga, hành khách xuống, có một nhân viên còn trẻ, râu cá chốt, xưng đại diện toà lãnh sự Việt, đến liếc mất làm tình rồi biến mất, phận sự của anh đối với tôi, chân ướt chân ráo xứ lạ, chỉ có bao nhiêu ấy, anh cho là đủ rồi; vì đã có sở ngoại giao Pháp phái một nữ nhân viên, bà Brotel, lấy xe của bộ, đến sân bay Orly, nhận giùm xách tay, làm thủ tục đoan, và đưa mình về Paris, mình xuống nhà bác sĩ Harter 160 đường Bronlel, là bạn quen cũ biết và mến nhau từ Sài Gòn; buổi chiều bà Brotel đem xe lại rước mình đến bộ ngoại giao nhận số liền trợ cấp để chi dụng trên đất Pháp. Một bà mạng phụ tiếp tử tế, giao 1.500 NF rằng hãy tạm nhận bao nhiêu đây, qua tháng sau sẽ đến nhận nết một số tương đương như vậy nữa (1.500 NF), bà không trao hết một lần, vì sợ rủi ro mất mát. Còn về sự chi tiêu, chánh phủ pháp không dòm ngó chi cá, để mặc cho mình, biết khôn thì nhờ, bằng muốn ăn xài cho thoả không học hành chi, thì cũng mặc; đó là vì tôn trọng tự do của ông đó. Thưa bà, tôi nào có nói chi. Qua đây dốc lòng “ăn” và “học”. Học đã sẵn viện báo tàng Guimel làm nơi làm việc, và các viện khác sẽ viếng khớp, cho đúng câu bồi bổ tỉnh thần; rồi sau đó, về vấn đề “ăn”, thì sẽ rán tận lực ăn, ăn cho biết món ngon mẫu quốc, nhứt là cái kia, cũng muốn sẵn dịp trả thù cho biết. Dầu bà không hỏi, sẵn đây gọi là phúc trình muộn. Tôi đã viếng được các nơi sau đây:
- Viếng toà lãnh sự Việt, 45 đại lộ Villiers, chào ông Phạm Khắc Hy, ngày 2/5;
- Viếng vùng Louveciennes, ngủ đêm ở đây, nhà phụ mẫu bác sĩ Harter, ngày 3/5;
- Chào bà Dupont, quả phu quản thủ viện bảo tàng Sài Gòn, và viếng mộ bà Christine Bruel, ân nhân trước cho mượn tiền xây dựng nhà tại Gia Định, 5-5;
- Viếng cung điện Versailles, ngày 9/5. Ngày 12/5, trở lại xem một lần nữa, nhưng vẫn không mãn nhãn; Viếng lò làm đồ gốm Sèvres, hoa viên Saint- Cloud, và musée Cernuschi, 12/5;
- Viếng đại học đường Collège de France, chào bác sĩ Filliozat, vì nay trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội tạm đặt trụ sở nơi trường nầy, ngày 15/5;
- Chào ông G. Coedès, cựu Viện trưởng Trường Bác cổ và cô Auboyer~ nữ quản thủ viện bảo tàng Guimet, nói chuyện với ông Elisseeff ngày 15/5;
- Viếng trở lại Musée National de Céramique ở Sèvres, chiều dùng cơm với Lafont, nhân viên Trường Bác cổ tại quán cơrn đường Sorbonne, ngày 16/5;
- Viếng điện Panthéon, ăn cơm Việt quán cơm Viện đường Monge ngày 18/5.
- Viếng cung điện Fontainebleau, dùng bữa tại quán xưa Napoléon từng đến, 19/5;
- Viếng Paris, điện Louvre, nhà thờ Notre Dam, cửa khải hoàn Arc de Triomphe, tháp Eiffel, ngày 20/5;
- Viếng lăng hoàng đế Napoléon tại Hôtel des Invalides, mộ tướng Foch, đi một vòng xem địa thế vùng Montmartre, xem nhà hát lớn Opéra, ngày 21/5;
- Viếng dưỡng đường Saint Louis, dùng bữa với các bác sĩ nơi Garderie Saint Louis, thấy nhiều tục lạ, các bác sĩ chào nhau bằng đi một vòng bàn ăn, lấy ngón tay chấm vào lưng bạn, chớ không bắt tay, và sinh viên học thuốc nơi đây vẽ hình tục tĩu đầy vách, bêu riếu giáo sư nhiều là thương nhiều, 22/5;
- Viếng cung điện cũ ở Blois của vua Francois 1er, điện Chambord, rồi qua điện Cheverny, xem mộ vua Louis XI và nghe một mục sư diễn và chỉ sọ vua Louis XI cho công chúng xem. Khi sống thì oai, khi chết chúng chỉ sọ trọng phơi bày trước mất công chúng, oai quyền còn đâu, ngày 23/5; Viếng hoa viên Olivet, xem điện Beaugency, xem nhà thờ Orléans, ngày 26/5;
- Viếng tỷ mỹ hành lang Galerie d apollon lại điện Louvre, thấy đủ thứ ngọc đã tả nơi bài số 27 trong tập; Bijoux de la Couronne, châu báu từ vua Francios 1er đến vua Louis XVI, viên kim cương le Régent, nặng 138 ca-ra. 27/5;
- Viếng cuộc triển lãm gốm mỹ thuật tại Sèvres, biết được ở Pháp, gốm tân chế giá mắc không thua gốm cổ bên mình, tuỳ người chế tạo Picasso, Le Corbusier, Cocteau, miễn là nhà tài tử hữu danh, là mắc tiền. Ngày 28/5;
- Sáng nầy nhơn đến viện Louvre xem phòng Hy Lạp, La Mã về nữ trang cổ, bà kiểm vé cửa, thấy đề trên thiếp mình là Quản thủ viện bảo tàng Sài Gòn, bà giới thiệu và đưa mình vào xem triển lãm châu báu hoàng triều Thuỵ Điển, gồm kiều khấu yên ngựa cổ dát vàng, gươm báu bịt vàng, và còi đi săn có nhận kim cương của vua Charles VIII, thật lạ mắt; 30- 5- 63.
- Viếng khám Conciergerie đời Cách Mạng Pháp năm 1789, nhốt bà hoàng hậu Marie - Antionette, và lưới gươm chém đầu vua Louis XVI; 31-5-63;
- Viếng lò sứ và lâu đài cổ ở Gien, đi xe ca du lịch nên rẻ tiền; 2-6-63;
- Viếng vùng Champagne, nơi trồng nho và chế rượu sâm banh, xuống hầm dài 48 km là chỗ để rượu dịu lại (xem một đoạn), được thưởng rượu ngon, tha hồ uống không lấy tiền; Champagne là cựu chiến trường; viếng nhà thờ Reims; 3-6-63;
- Viếng viện bảo tàng thuộc địa gọi Musée de la France d Outre-Men, và ghé Hôtel Drouot là nhà bán đấu giá, cũng y như nhà tầm tầm Sài Gòn buổi xưa nếu kể về sự dơ bẩn. Nhưng Hotel Drouot vĩ đại, và chia ra nhiều phòng có hộ giá viên riêng đều là chuyên gia; gốm, sứ, bội tinh, sách cổ; ngày 5/6;
- Đi Lisieux ngày 8/6 bằng xe hoả tốc hành, thăm cố ân sư dạy sử ở Chasseloup là B. Bourotte, đêm ngủ tại đây và đàm đạo đến khuya, rạng ngày 10/6 về Paris, dè đâu là lần chót, vĩnh biệt hay sẽ gặp lại ông bà Bourotte ở huỳnh tuyền. Hôm nay tận lực giúp viện Guimet và nữ chuyên gia Daisy Lion -Goldschmidt sắp lại bộ môn đồ sứ của ông Grandidier đi tặng viện và để trên gác vì không người khảo cứu rành. Bà Goldschmidt tặng sách và hứa sẽ mời trở qua tiếp tục xếp lại bộ môn nầy, nhưng từ ấy bặt vô âm tín, tôi thì không vận động xin xỏ nên chuyện xếp đặt đồ xưa thành bánh vẽ. Ngày 13/6/1963;
- Xem diễn kịch ở rạp Théâtre du Vieux Colombier, tệ xấu, chỉ có danh (15/6).
- Viếng viện Pasteur Paris với viện trưởng là bác sĩ Girard, quen trước, xong rồi bác sĩ đưa về nhà ở Garches đãi cơm. 15 giờ ông lái xe đưa về Paris, nhưng đã trễ chuyến đi viếng hầm chôn xác và nơi tụ hợp Cách mạng les Catacombes. Bèn xin để mình xuống lựa sách đường Monsieur le Prince, bắt tay lần chót và không gặp ông lại nữa. Ngày 15/6.
- Trở lại viếng tháp Eiffel và Nhân chủng viện (Musée de l’ Homme) 16/6;
- Sáng 18/6, lên tàu hoả lốc hành đi Bruxelles, kinh đô nước Bỉ (Belgique) 7 giờ 33 xe chạy, 10 giờ 27 xe đến nơi; một lần đầu đi xe train - express, thật là khoái trá. Đến đây thất vọng lớn, vì bà Houyoux, viết thơ xin hẹn trước bà không trả lời, nay đến tìm thì bà đã về hưu; muốn xem cho được đồ cổ, lên taxi, xe đến chỗ, kim đồng hồ chỉ 49 F., móc ví trả 60 F., mà bác tài chưa chịu, kèo nài thêm 5F, nữa mới vừa lòng, nếu vậy thì bác tài Sài Gòn còn phải đến học nghề nơi kinh đô nước Bỉ. Nhưng có chỗ an ủi, vì viện Bỉ Musée du Cinquantenaire, phong phú gấp mươi lần viện Guimet, kể về đồ gốm men ngọc Thanh Hoá, có trống đồng, có cốt momie (xác ướp khô, ngót ngàn năm còn nguyên vẹn); có đồ cổ đồng xưa không kém các viện nào, duy đồ sứ men lam Huế, ở đây không có một mống nào, vì thuộc địa của Bỉ là xứ da đen không có đồ sành bleu de Huế. Trái lại đồ gốm men ngọc ở đây thật là nhiều và rất cổ, vì nghe đâu có một nhân viên trường Bác cổ, đề nghị bán bộ môn sưu tập của va cho viện Guimet, rồi giận vì trả giá không đúng, nên ôm hết qua Bỉ bán hết vào viện nầy, một cơn giận nhỏ làm hư hại cho nước Pháp không ít. Ở viện nầy ra về, còn tìm đến le Pavillon chinois ở Laeken, xem tiếp bộ môn chén trà Trung Hoa và một trà đình bằng gỗ rất nên thơ, nhưng xem lại những chén trà nầy toàn loại ngũ sắc, còn mới độ vào đời Đạo Quang đến Quang Tự và Tây Thái hậu đây thôi và như vậy còn kém bộ môn của mình xa. Ở Laeken về Bruxelles, học được khôn, đi xe buýt rẻ tiền và không đưa cổ cho taxi cắt như buổi sáng nữa. Đêm nay trọ phòng ở kinh đô Bỉ, sạch và thoả mái, nhứt là ở Bỉ, bánh mì ăn tan trong miệng, ước sức ở xứ mình có bán, sáng điểm tâm bằng bánh, khỏi giặm hột gà om-lết, cũng đủ ngon. Cố ân sư một hai căn dặn tới Bỉ, nên nếm bánh mì ổ và bánh mì chiếc đũa (baguette), đến đây thí nghiệm quả lời thầy Bourotte, không sai. Buổi chiều thả bách bộ cho biết chợ Bruxelles, thấy bán hánh mì lạp xường, mua ăn đỡ buổi cơm, nhưng không khoái khẩu, vì lạp xường họ chiên trong mỡ chớ không nướng lửa than như bên mình, ăn vô ở cổ và nặng bụng, thao thức không ngủ. Sáng sớm đi xe điện trở lại Laeken, tốn có 5 F., thay vì mấy chục quan hôm rồi. Xem lại ngôi trà đình bằng gỗ, thấy mà tội nghiệp cho gỗ thuộc địa, qua xứ lạnh như người vong hương, coi bộ không đứng vững được lâu. Thiếu hơi nóng mặt trời và qua mùa tuyết, nóc lãnh đủ lớp tuyết dày, ắt sập. Đến trưa từ giã hai người quản thủ Belge, đón xe tramway (xe điện) đưa đến ga tàu hoả, vé 5 F., vừa đến bến, xe về Paris sắp sửa lăn bánh, nhảy càn lên toa hạng thường bất chấp vé mua hạng nhứt, miễn về sớm tới Paris là thích chí, và còn sướng hơn đeo xe buýt Sài Gòn ngày nay bá bội. Khởi hành 10 giờ 50, xe đến gare du Nord là 14 giờ 50, vì không phải chuyến tốc hành. Còn lại bánh Bỉ hai bánh mua 8,70 Fr hồi sáng, ăn trừ cơm, còn ngon hơn bánh croissant Paris (19-6-63).
Hôm nay, trời Paris mưa buồn tối, rán đi Musée de l Homme, vẫn còn hấp dẫn, cũng có đủ xác ướp khô, hình nộm về nhân chủng học đủ các sắc dân hoàn cầu, có một hình nộm một hoa khôi Hottentole loã thể, xem đã nhiều lần, mà mỗi lần tới đây, bắt đứng tần ngần nghĩ nghị xa gần, không biết đàn bà xứ gì quái gở đến bực nầy, mà tại sao xấu tệ mà hấp dẫn ghê hay cặp nhãn mình đã bại hoại rồi (ngày 20~6); lối nay cô J. Auboyer lái xe đưa về nhà, ghé mua món ăn sẵn, cơm xoàng nhưng thân, nhà trên nồng cao, vách bằng thuỷ tinh, thấy Paris về đêm như cảnh tiên. Cô bé mặc y phục Việt ngồi bên tôi, nay đa bao lớn?
- Viếng Château de Vincennes với bác sĩ Harter để từ giã luôn trước khi lên đường rời Paris, dắt nhau trở lại Salle de garde de l’ hôpital Saint Louis, ở đây vừa cơm ngon, vừa không tốn tiền vì Harter đài thọ, vừa nói chuyện vui vì các bác sĩ ở đây rất cởi mở, không phân biệt màu da. (Ngày 21-6);
Bữa nay là ngày áp chót (25-6-1963) còn không mấy giờ nữa là từ giã Paris. Paris quyến rũ thật, ban đầu lạ sau quen, vừa biết mê là đã hết hạn kỳ. Lòng vẫn nao nao trông mau về nhà mau thấy mặt vợ con, vì sức đã thấm mệt, tiền túi đã nhót, sự tận lực trong ngót hai tháng nơi xứ lạnh, khi mưa khi gió bất thường, chúng bạn quen người Việt đều sổ mũi nhức đầu, mình cũng như ai, làm sao tránh mãi việc phong vân bất trắc. Sáng để bụng đói, xuống xe ngầm mé tro đi một hơi đến viên-lâm Bois de Vincennes, đến vườn bách thú (jardin zoologique), khéo gấp mấy lần vườn thú bên la, thêm có nhiều thú vật lạ; gấu trắng Nga, lạc đà Mông Cổ, voi Phi châu, tượng Á châu, ngựa rằn, bò bướu, con lê ngưu đủ hai loại, loại có một sừng và loại đủ hai sừng; sư tử Phi châu và cọp Tây tạng, nhứt là loại tạp chủng, đúc tréo (croisé ); tên mới đặt là tigron hoặc tiglon, cha là sư tử, nên đầu bồm xồm cổ xù, và mẹ là cọp, nên mình vằn vện. Giống nầy không sanh đẻ, muốn có, phải đúc lại (hỗn huyết; hybride). Có con hươu cao cổ (girafe), nhưng tôi vẫn thích và trở lại xem con tê ngưu một sừng, của Á châu, hình thù dị kỳ như người giáp sĩ thượng cổ mình mặc giáp sắt, trong rừng nó ăn gai, càng cất miệng càng đã thèm, và uống nước khuấy cho đục ngầu mới uống, chẳng qua biết mình không đẹp nên không muốn thấy bóng soi dưới nước, nhưng chẳng qua tê ngưu tự tìm cái khổ, hạnh phúc kề bên mà không biết tận hưởng, và đời có cần gì đẹp, sức mạnh vô biên của tê ngưu đực là đủ tê ngưu cái mê rồi. Kế bên anh chàng vô phúc ấy, có con bạn đồng loại, sanh tại Phi châu, nhỏ con hơn, nhưng dầu có đến hai sừng? Ăn điểm tâm tại vườn, uống cốc bière, ở chơi đến mười một giờ, thả lần lại đường La Huchette, nhà Đào Khiết, rua ba cuốn sách xuất bản tại Hà Nội, rồi đến nhà bà Dupont đường Boursault, bà đãi một bùa cơm từ giã, đến tối thay y phục đến dự cơm khách nhà bà Bensusan, trước có qua Sài Gòn, ham chơi đồ cổ, tiệc tám người, chuyển về theo mé tro, tới phòng là 12g, 1-4.
- Trọn ngày 26/6, thức dậy sớm, xếp đặt hành lý, đi đến đâu cũng là một cử chỉ kể như lần chót; uống cốc cà-phê góc đường Monge, từ giã bác sĩ Nguyễn Trần Huân, vợ chồng Lý Công Trinh, để trong tập lưu bút họ Lý; đêm vui rồi cũng dứt, hai tháng Paris có bao nhiêu? Tình một xứ, tình biết nhau từ thuở nhỏ, tình tha hương niềm nở như vầy rồi cũng phải chia tay. Tạm biệt hay là vĩnh biệt, rồi cũng gặp nhau có ngày. Đêm chót ở Paris, 26-6-1963.
27-6-1963 - Mấy hàng nầy viết tại nước Ý, nơi thành La Mã, trong một ký túc xá gọi Pensione LE PALME, số 160 đường Flaminica thuộc chung một cao ốc Salvia, đến đây hồi 11 giờ 30 trưa, nhớ sáng sớm còn ở Paris, métro và các thứ xe công cộng đều đình công, may thời có phước tinh là bà Roux lái xe mượn của người quen, giải vây, chạy như bay đến Orly vừa kịp lên tàu bay thì kim đồng hồ chỉ 8 giờ 30, qua 8 giờ 55, máy bay cất cánh. Lúc ở ga chờ làm thủ tục cân hành lý và kiểm vé, bà Roux tỉ tê tâm sự, rằng tiếc vì lúc mình ở Paris, nhà bà có khách tá túc nên không mời mình đến ở cho đỡ tốn (sau về xứ rõ được lão khách nói đây là Nguyễn Đình Thuần). Máy bay bay cao trên ngàn thước.
10 giờ 55 đáp xuống sân bay La Mã, thì đã có sẵn ông Corsini, trước là đệ nhứt thơ ký toà lãnh sự Ý tại Sài Gòn, nay về nghỉ phép ở quê hương, cũng bạn chơi đồ cổ, và có thạnh tình làm hướng đạo cho mình trong mấy ngày dừng chơi nước Ý. Ông Corsini khiêm tốn và khả ái thật, nhưng mình không dám lợi dụng lòng tốt của ông nhiều, lúc ra sân bay rước mình, tự ông xách giùm hành lý lên taxi, và giành trả tiền xe, thêm cho mình mượn mười ngàn đồng lire (tiền nước Ý) để xoay xở nơi nước lạ đường xa nầy, ơn ấy tôi không bao giờ dám quên nhưng buổi ấy liếc thấy ông cùng đi với một cô gái đẹp người Đức, thầm nghĩ có lẽ đây là vị hôn thê của ông chăng, nên tự thoái thác đi đường riệt, xin miễn dự buổi tiệc ông mời về nhà, để dùng thì giờ mua vài tấm thiếp gởi anh em và viết mấy trang ký sự. Bao việc xảy đến cho mình đều như tiền định. Cám ơn nước Pháp cho mình một dịp may đi “ăn và học”. Về học, nhớ lại khi kể lể mấy trang trên đến phát chán, thì chẳng là mình học rất nhiều, duy thồn đọng kiểu bồ câu ra ràng ngốn mồi của mẹ đút, nuốt không kịp thở biết sau nầy có còn nhớ được chút nào chăng. Nhưng than ôi, học khá nhiều, nhưng vô sở dụng, về tới nhà không bao lâu thì lão Khánh cho ra rìa, đành ôm mớ hiểu biết làm của riêng như con nhện già ôm bọc trứng. Duy kể về “ăn”, đây là đặc quyền sở hữu của riêng, không chánh phủ nào kiểm tra và dạy phải phúc trình, cái tuổi quá sáu mươi còn gì là lạc thú, trong bốn thú trời dành, đứng đau há chẳng là “ăn”? Ở Bỉ nếm bánh mì ba-ghết (baguette) ở nước Pháp suốt hai tháng, nào pho-mát, nào thịt chiên, thịt nướng, nào trái cây tươi, nào lòng bò nấu theo kiểu tỉnh Caen (tripes à la mòde de Caen) bên xứ mình vẫn nấu được nhưng vì thiếu cải-lach (moutarde) nên mất vị. Nhứt là những buổi tiệc tại gia, mỗi nhà ở kinh đô và ở vùng sông Loire, nhớ tới rượu vang mỗi khi xe ca du lịch tổ chức viếng lâu đài cổ, trải qua vùng nào đều mời thường thức rượu đầu mùa hay rượu để lâu năm kiểu Champagne quảng cáo uống líp theo tửu lượng và khỏi trả tiền, nhớ hơn nữa là tấm thạnh tình chân thật của cô Jeannine Auboyer, Quản thủ viện bảo tàng Guimet, nhà cô đơn chiếc, gái độc thân, thế mà cũng mời đãi mình bữa nọ, nhớ cô ghé xe mua trong phố món ăn là in sẵn nhưng nhớ đến vuông nhà toàn bằng kính thuỷ tinh trong sáng như vậy mà ăn ở mãn đời trong nhà “kiếng” ấy mà không chói mắt sao? Nếu bên xứ mình thì không khác sống trong lò quay nhưng nhờ khí độ Paris, lạnh nhiều hơn nóng và vẫn thiếu ánh sáng mật trời, cho nên đêm ấy, ngồi trong lồng kính ngấm muôn sao trên vòm trời và muôn ngàn đốm sáng từ vùng kinh đô ánh sáng chiếu lên, thì quả là cảnh Thiên thai trên địa thế. Nhà cô Auboyer hôm ấy chỉ có sáu người nhà, cô là bà bạn “chủ nhà chung”, bốn trẻ ba trai một gái, cô nầy hôm ấy vận quốc phục Việt Nam để tiếp đãi tôi thêm long trọng, với tôi nữa là bảy người nhập tiệc, cô Auboyer là một học giả uyên thâm về ngành khảo cổ, nhưng cách cô tiếp đãi, nó nhã nhặn và thật tình làm sao. Mình là gì, mà được trọng đãi như vầy, nghĩ mà hổ, và không khỏi đổ thừa cho bớt thẹn là “giai cho tiền định”.
Nay tới xứ của lão Marco Po lo (1254 - 1323) là tay hầu cận vua Hốt Tất Liệt đời Nguyên. Lão ăn cắp thuật làm mì của Trung Hoa, chừng nào mình được nếm? Thối thác không dự tiệc của ông C. là cố ý, muốn ăn theo bình dân ở quán trọ cho biết thú phong lưu nếm cho đủ mùi đời. Quả nhiên nhà tôi tá túc đây, là ký túc xá khách ngồi bàn có đủ sức, một Nhật Bản, một người da đen, hai người kỹ sư một Đài Loan, một Trung Hoa lục địa, và tôi, ông Corsini khi chọn chỗ nầy cho tôi là khéo trí hết sức, phòng nầy vừa ở gần nhà của ông đi bộ cũng tới khỏi cần xe, thêm được yên tịnh, sạch sẽ và không mắc tiền. Mỗi buổi sáng điểm tâm bánh mì, khi là baguette, khi là bánh nute, (dài và vóc nhỏ như ống sáo, ít ruột, da vàng lườm và bột ngon không thua bánh nước Bỉ làm ở Bruxelles), cà-phê pha một tô đầy, nêm sữa thật nhiều, thêm đĩa bơ lạt, ổ đĩa bơ lạt, nhớ tới thèm rỏ dãi. Ý còn là xứ lạnh, La Mã mát mẻ dễ chịu, nên bơ ở đây họ không để nguyên cục và họ nạo bằng dụng cụ gì mà mỗi miếng bơ khéo như vỏ sò, giống cái ngao nho nhỏ xinh xinh, vừa lấy mũi dao khều và phết vào bánh mì, thì bơ ríu ríu dính theo dao, và thau trong miệng vừa thơm thêm ngon ngọt. Tôi ở đây mấy ngày, mà tiền ăn tiền phòng: tính lại không bằng một bữa cơm xoàng xĩnh của tửu lâu Caravelle độ nọ. Hôm 27-6, khi đến La Mã, tôi dùng bữa cơm nhẹ lại ký túc xá, nằm nghỉ lưng và tắm nước mát thấy phục hồi sức lực lại. 15 giờ tôi thay y phục đến nhà Corsini, mới rõ đây là nhà một hầu tước Corsini cha trước là giáo sư trường luật có danh, nay đã khuất, bà mạng phụ trông còn khỏe và nhã nhặn đài các lắm. Bạn Corsini của tôi còn một em gái xinh đẹp đúng là con nhà gia lễ, nói chuyện tiếng Pháp rất bặt thiệp, và rất có duyên; không như cô gái Đức, cũng là tân khách nhà nầy như tôi, quả là vị hôn thê của ông chủ con, nên nội nhà đều lăng xăng niềm nở với cô lắm, chính Corsini cũng quýnh quít với cô nhưng tôi không hạp nhãn và có linh tánh cô nầy quá lạnh lùng và xa vời, làm tình vài bữa thì hay, làm bạn trăm năm thì lâu ngày ắt trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Duy được một cái là gái Đức xưng hô cũng “dạ” như mình.
Chào thân mẫu và em gái chủ nhà xong, Corsini và cô Đức và tôi đồng xuống lầu cùng lên tai dạo một vòng cho biết thành La Mã; Basilique de Saint-pierre (đại giáo đường thánh Pierre), Colisée (cổ đấu trường trứ danh), Catacombes (hầm chôn cốt dưới đất sâu và cũng chỗ tụ hội xưa của dân La Mã), và một Basilique (giáo đường) ở ngoại ô, nhỏ thôi nhưng xinh xắn, lúc ấy đang kinh chiều, tiếng ngân nga trong vất từ trong giáo đường vọng ra, thiêng liêng huyền bí, xứ nầy là xứ của đạo Giatô và của Marconi ( 1874-1937) thuỷ tổ của máy vi âm tinh tế.
- Thứ sáu 28-6-/963 - Hôm nay là ngày thứ nhì ở La Mã. Gia đình Corsini mời mình 1 giờ trưa đến dùng cơm. Buổi sáng ăn tại ký túc xá rồi thả bộ dạo xem đường sá La Mã, khang trang sạch sẽ thật, nhưng khách ngoài đường vắng hoe, hay là giờ mình dạo phố là giờ họ đến thánh đường nghe lễ. Mỗi ngã tư đại lộ, tôi đều thấy hồ nước cổ, có bể cạn và vòi nước bằng đá vừa cổ vừa mỹ thuật; ngày xưa một bể cạn có nước cho dân dùng như vầy là có ích vô ngần, nhưng ngày nay là thời buổi xe cộ chạy như mắc củi, e bể cạn là chướng ngại vật bề bộn hơn là hữu dụng, cũng may thành phố La Mã không đông người đông xe như Paris, vả lại người Ý đa số là hiếu cổ, nên bao giờ họ dẹp bể cạn cho đành. La Mã là thành xưa, liệt vào cổ tích, nhưng chu vi không lớn, mình đến sở bưu điện gởi mấy tấm thiếp cho anh em, chứng tỏ hôm nay mình có để chan nơi chốn nầy kế đến giờ lại nhà C. Bữa tiệc hôm nay là tiệc đãi miễn cưỡng, không lựa ngày khác được, vì mai nầy tôi cất bước đi Istanbul, chớ ngày thứ sáu, ở đây họ đều cữ thịt, nhưng rất may cho tôi, là có dịp thấy cái khéo của mụ bếp già, dọn toàn là pâte, bột mì nhồi trong nhựa (ruột bánh) đều là hoa quả mụ nghe khách là Việt Nam, mụ lên đứng mời từng món một, khoe món nầy nhồi cách nào, món nọ là đặc biệt của vùng nào, mụ tưởng người Việt ốm và nhỏ con, nên cố ép ăn, không ngờ tôi là con cháu Hạ Hầu Đôn, bao nhiêu món dọn ra, mời chủ xong, còn lại bao nhiêu, tôi đều nịch hết. Không biết trong bếp, mụ có chừa chút nào không, hay lát nữa mụ nhịn đói, nhưng thấy mặt mụ tươi chong, tôi ra về mừng thầm vì trời cho tôi có một dạ dày mạnh chở. Cái rủi của tôi là du lịch La Mã vào dịp lễ thánh Pierre nên điện Vatican đóng cửa để chưng dọn, tôi chỉ leo lên được nóc điện, những tượng bằng đồng trên nầy y cao lớn dị thường, lưỡi cưa của một vị thánh cầm trên tay, đứng dưới đất tưởng lưỡi ấy mỏng như lưỡi cưa thường, nhưng lên đến gần xem lại lưỡi dày trót phân tây mà ở dưới lúc nãy xem mỏng dính. Một cái quê “chú Mán ra chợ” của tôi là khi đứng trong thang máy chờ lên nóc Vatican, tôi không thấy thang động địa nhúc nhích khi tới nơi còn chưa hay nên lúc thang đặt xuống tôi để ý nhìn nhờ bóng sáng thay đổi mà biết thang chạy tốt, chẳng qua loại thang điện (ascenseur) cũng như loại máy vi âm thâu âm hay phát âm sản xuất ở Ý đều là hạng nhứt (xứ của Malconi mà lỵ! Và nay người Nhựt có sản xuất hơn không?)
Céladon, gốm men ngọc, mi là giống chi mà đày đoạ ta đến thế? Muốn xem mặt mi ở Istanbul mà phải đổ đường ngàn dặm, lặn lội những chốn xa lạ nầy cũng vì mi! Hôm qua đã tắm. Hôm nay, về đến phòng, thấy tốt trời, bèn xin nước tắm nữa. Lúc ở Paris, một bạn cũ từng nói ở đó một năm tắm vài lần là đủ, vì chỗ tắm khó kiếm, mất tiền, tốn kém. Nhưng mai nầy là lên đường trẩy bước sang xứ ấm Thổ Nhĩ Kỳ, âu là tắm nước lạnh cho sạch cái phong trần trời âu, tắm lần chót để tẩy trần, chấm dứt bước Tây du hai tháng. Vì hai tháng nên chưa thành chánh quả.
Thứ bảy 29-6-1963 - Cô Đức đã bay về xứ ăn thịt đồi un khói, xứ xúc-xích và rượu bia đen. Hôm nay cũng là ngày chót của tôi trên đất Ý, nên anh bạn C. của tôi cống hiến trọn ngày cho tôi, để thoả tình người đồng điệu si mê đồ sứ cổ. Anh dặn tôi ăn điểm tâm nhẹ nhẹ, để anh sắp cho tôi thường thức một cái mừng bất ngờ.
Rủi cho tôi ngày nay là ngày lễ thánh Pierre, các hiệu buôn, các nhà sách, tiệm bán đồ xưa, đều đóng cửa. Hai tôi la cà từ quán nước đá chanh qua quán cà-phê, thả bộ gần rã giò mà 14 giờ 35 là phải có mặt ở sân bay, nên chi tuy còn sớm chán, mới 12 giờ Corsini đưa tôi lại một khách lầu ở một ngã tư đường thị tứ nay tôi đã quên tên, ông gọi chủ nhà ra và giới thiệu tôi mà dặn rằng; “ông làm cho bạn thân tôi là ông Sển, một đĩa pâte có trộn fromage và một trái dưa melon”. Tôi không biết đĩa ở đây bao lớn nên dè dặt xin “nửa đĩa thôi “, nhưng ông chủ nhà hàng cũng là đầu bếp ngự thiện, xoa tay liếc bạn tôi mà nói một câu tiếng Pháp giọng Parisien: “Thưa ông khách quý, hôm nay trước mặt bạn của chúng ta là C, đây tôi hiến ông một đĩa lớn bánh bột rắc pho mát do tự tay tôi chế biến. Nếu ông dùng không hết đĩa, thì tôi không nhận tiền và xin ông đừng gọi tôi là ngự thiện số một của thành La Mã nầy”.
Mà quả thật không biết bao tử của tôi hôm đó là bao lớn, mà đĩa bột đi trước, đĩa dưa gang đi sau, cả hai đều chung tót vào hồi nào tôi không hay, ngon quá, khoái quá, ăn quên thôi, và khi bước ra đường tôi không thấy nặng bụng chút nào vẫn đi đứng như thường như chưa xức phàn. Tiếc một điều là hôm nay là ngày chót, muốn ăn lại nữa có hoạ may là chờ kiếp sau. Corsini đãi tôi và chỉ ăn sơ một chén gelée, và tôi cũng làm một chén gelée (thịt đông) và vẫn ngon như thường.
Vạn sự Corsini bao hết, luôn cả lát nữa tiền taxi và tiền vào sân bay là 1.500 lires, chung qui vừa tiền mượn bỏ túi vừa tiền trước tiền sau, tôi nhớ mắc nợ bạn tôi là 12.000 lires, tức là lối 120 NF hoặc tính theo liền Việt Nam hồi đó là 1.848 đồng hay là tiền chẵn 2.000 đồng cho gọn, ấy là ăn xài thả cửa ba ngày ở La Mã năm 1963, của thằng hư nầy.
Sau bữa cơm, C. gọi taxi đưa tôi về phòng, lấy va ly tự tay ông xách, tôi giành lại ông không cho, khi tới nhà gare trời nóng bức như bên ta vào mùa hạn, hai đứa ngồi chờ đến 14 giờ 35, C. đứng dậy bắt tay từ giã, C, nhìn tôi cất bước lên xe đưa ra sân bay, nối gót phiêu lưu. Không biết một tiếng Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), xứ ấy quen dùng tiếng Anh, thì mình cũng không biết luôn, biết quẹt quẹt ba tiếng Tây y thì xứ Thổ Nhĩ Kỳ không xài, thế mà vẫn mạnh dạn lên máy bay đi cho biết. Tôi ngó lại, vẫy tay cám ơn người bạn tốt, Corsini anh ôi, phải tam sanh hữu hạnh mới tái ngộ nhau phen nữa. Biết đến chừng nào tôi gặp một bạn như anh? Bây giờ anh ở đâu, hay là công danh đắc lộ, anh nay là đại sứ? Tiền túi không cho có ngoài số đã định, đô la thì quá lớn, cho thì tiếc, mỗi lần sang nước khác, tiền lặt vặt xe cộ không đủ chi dụng, vì vậy mà tôi phải nhờ C. trả tiền, thiệt là thốn bên đít. Đi xa mất thú.
Từ phút nầy không nói là 14 giờ 55 (giờ Ý) mà đổi lại 8 giờ 55 (giờ Thổ Nhĩ Kỳ. Xe đò đưa từ gare Rome qua chỗ hãng Air France chở ra phi cảng, giá vé là 3 T.L (lire turc). Tiền còn trong túi là 180 NF đổi được 327,60 T.L. Xe đến chỗ, bác tài người Turc chìa tay đòi răn rắt là 5 T.L mặc dầu giá định là 3 T.L. ăn cướp từ đây. Thổ Nhĩ Kỳ là xứ trồng cây thẩu làm ra á phiện. Thồ Nhĩ Kỳ là xứ đàn bà che mặt (nay đã bỏ), và đó cũng là xứ đẻ ra danh từ bakchich; pourboire, hối lộ, ăn cướp từ đây! Máy bay đến Istanbul, đến phòng dặn trước té ra họ nhốt mình trong một căn chật hẹp và nhỏ như hộp quẹt, thêm ở tuốt dưới hầm sâu, không có cửa sổ, vậy mà chưa nói tiền cho chác lì xì, tiền service, tiền phòng tính mỗi ngày 3 đô la (3 dollars), ăn cướp cũng từ đây!
- Chủ nhựt 30-6-1963 - Hay là: “Đây cách người Thổ Nhĩ Kỳ ăn pà uống”.
Sáng thức dậy, ngày đầu tại Istanbul, phải làm cách nào cho thấy đủ điều với thiên hạ, với một số tiền có hạn định (180 NF hay 327,60 T.L, trong số nầy, còn chừa lại tiền vặt trả tiền xe pháo khi tới Tân Sơn Nhứt). Từ phòng ngủ ra phòng khách của khách sạn Plaza nầy, phải nói là lên, vì phòng ở dưới hầm sâu. Tuy trời còn sớm lắm, nhưng đến phòng khách tôi đã thấy tề tựu bốn năm anh tài xế đủ sắc dân, đến đây kiếm mối. Tôi dùng Pháp ngữ và nói cần dùng một bác thạo tiếng Pháp. Có một anh da trắng, mặt mày xem cởi mở, đứng dậy bắt tay tôi vừa cười vừa xưng tên là Marko. Lão vừa là chủ xe vừa lái taxi. Nhưng tôi đến xứ bakchich lần đầu, phải biết già tay ấn với bọn nầy. Tôi hư tôi chịu thua đồng bào cùng một dòng máu và cùng một xứ với tôi, nhưng với bọn nầy, tôi không cho lột da nữa. Tôi thương thuyết với Marko chịu mướn xe y hai ngày, giao xem đủ hết các kỳ quan phong cảnh đất Bosphore, nhứt là những danh thắng tại lstanbul, lấy sách chỉ nam của tôi cầm tay làm bằng là cuốn Istanbul et ses evirons loại Guide bleu illustré của nhà Hachette, thông pháp. Ngã ngũ một trăm quan Pháp nặng (100 NF) chở tôi đi chơi hai ngày xăng nhớt của va, Marko chịu, và liền đó, va lần lượt đưa tôi đi xem khắp các nơi nầy và làm hướng đạo viên luôn, mỗi chỗ. Marko lại còn châm tiếng Pháp và dặn trước tôi mọi điều để tránh nạn quỷ sứ ăn đàng sóng nói đàng gió, đòi hối lộ và bakchich. Nhưng nơi tôi được xem là: (xin để nguyên Pháp văn, vì dịch lạ thì lòng thòng);
1 ) La Mosquée bleue (chùa Thổ Nhĩ Kỳ cẩn bằng gốm men màu lam) (ở đây có tục khách xem phải cởi giày mới được bước vào chùa, vì sợ dơ tấm thảm bằng lông thú quý. Nhưng Marko dạy tôi cho 0,50 lira, tức thì tên gác cửa trao ra một đôi babouche (giày hạ không gót), tự tay tên gác dang quỳ gối tròng babouche trùm hết giày tôi kín mít, và tôi vô chùa khỏi cởi giày; nhờ hối lộ. Khi tôi ra cửa, tên gác dang quỳ gối một lần nữa, lột babouche và cám ơn khúm núm, bao nhiêu ấy chỉ tốn có nửa đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ (0,5 lira turc).
2) La Sainte Sophie, một ngôi chùa vĩ đại, đã có từ năm 325 Tây lịch;
3) Le Musée des mosaiques, xưa chặt đầu người ở chỗ nầy;
4) La Fonlaine d ahmel III;
5) Le panorama de la ville, xem toàn thể phong cảnh vùng Bosphore hùng vĩ, nước biển trong vắt ngó trước mặt là bờ cõi Nga, hay rún trái đất là đây?
6) Le musée archéologique (viện bảo tàng cổ tích học (nơi đây có quan tài bằng đá của Alexandre và xác khô (momie) của vua xứ Sicon, tóc còn, và cái sọ thì chẻ ngay đỉnh đầu là một cổ tục chẻ sọ như vậy y khi còn sống, nếu người đó không chết mới là linh thiêng.
7) Les 1001 colonnes de Binbirdirek (đó là hồ chứa nước dưới đất có nhiều cột chống đỡ và khi đứng xem, hơi nước mát lạnh khiến phải rùng mình);
8) La Mosquée de Suleiman (một chùa cổ đặt tên theo vua nầy);
Xem đến đây, đã trưa trật, thêm kiện cắn bụng, không biết sao tiền túi ngày một nhẹ mà từ khi Tây du, bụng đói liền liền, để bắt bồ với lão Marko cho thêm thân thiện, tôi mời lão dùng với tôi một bữa cơm Thổ, tự ý và đưa đường miễn ngon và bình dân là quý. Lão cười, lái xe đánh một vòng thật lớn cắt nghĩa và cho tôi xem tổng quát chung quanh Bosphore, thiệt là núi non trùng điệp, dưới nước là một màu xanh biếc trong khe, đúng với câu nước non muôn trùng, nếu nhà ở gần, sớm chiều đến ngắm cảnh nầy, ắt là lu chết.
Không biết lão có tính cuốc xe nầy trong số liền giao kết với mình buổi sáng chăng, nhưng sau đó lão ghé xe vào một cái quán nhỏ lèo hèo, lão gọi dọn mỗi người một đĩa cơm và thịt trừu, gọi Doner kebabi avec pilaf (mouton au riz) vì lạ miệng, tôi ăn thật ngon, ăn rồi uống một ly nước suối, khi trả tiền, tôi tặng Marko một gói thuốc lá, vị chi hết thảy là mười một lira turc, rẻ quá. Marko đưa tôi về nhà hàng Plaza thì đã một giờ trưa. Tôi thay y phục, nằm nghỉ lưng đánh một giấc đến ba giờ chiều, thức dậy tắm nước lạnh, vì tiết nóng như bên mình, 28 độ. Tôi lên thang ra sân khách sạn, gọi một taxi mà tài xế là người Ba Lan, cao lớn con nhưng dáng hiền lành, lão nầy lái xe đưa tôi một vòng Bosphore khác hơn đường của Marko buổi sáng, chuyến về đi vòng ngả núi, phong cảnh chỗ còn tịch mịch nhưng chỗ khác quang đãng lắm, thỉnh thoảng có suối chảy róc rách và mấy chỗ ấy dân ở đây đều có đặt đồ dùng cho khách lỡ bước tạm dùng nước ấy giải khất, nếu bên ta thì ất có lập miếu thắp nhang. Tín ngưỡng ở đâu cũng có, duy phong tục có khác. Như buổi sáng tôi dùng bữa rồi tuy không có đũa nhưng lệ quen tôi chắp tay xá, có tên Thổ ngồi trước mặt, nở một nụ cười khinh rẻ, tôi cứ để cho nó cười. Về đến khách sạn Plaza, bác tài Ba Lan xin ba mươi lăm lira, giá nầy rẻ hơn giá Marko 20%, nhưng lỡ đã giao kết với thằng da trắng biết nói tiếng Pháp đó rồi. Bận về ghé nhà đại khách sạn quốc tế Hôtel Hilton để xem chưng bày đồ gốm men ngọc céladon. Lúc ở Sài Gòn, bác sĩ Caubet khoe nhà nầy bán giá hời, nhưng chiều nầy là chủ nhựt, nhà hàng đóng cửa, đi lốn tiền xe vô ích. Và khi đi sứ lạ không có sách chỉ nam, chỉ mất thì giờ và tốn tiền lảng như vầy. Kêu tai trở về Plaza, giá xe là năm lira, thì đâu có mắc, và lầm lão Marko rồi.
Đêm nay bụng đói, biết nhà hàng Plaza có bán khuya, nhưng không dám lên, vì sợ không đủ tiền và đường về nhà còn xa thăm thẳm. Người ta xuất dương, không nghe nói trông về. Còn tôi, giấy phép cho đi hai tháng, mà xem dài như thiên thu, ý là đi du lịch có ngày về, nếu đi vĩnh viễn như ai thì chịu sao cho thấu nỗi nhớ nhà. Đêm nay là đêm áp chót trước khi lên máy bay trở về nước, sao lại thấy thương Việt Nam cố quốc của mình quá.
Thứ hai ngày 1-7-1963 (11 tháng 5 âm lịch năm Quý Mão), đêm chót ớ Istanbul.
Sáng nầy thức dậy sớm ngồi tính sổ, hơi ngán và giựt mình e không đủ tiền dùng. Đếm tiền trong túi và ví, còn cả thảy là 100 NF và 5 đô la, với 178 lira turc, sợ cho không đủ tiền phòng, tiền ăn bữa nay và nội tiền lão Marko đã 100 NF rồi. Nhưng khi gặp Marko, thì lão thản nhiên khuyên mình không nên để tâm chuyện ấy vì theo lão, có thể bớt tiền phòng với nhà Plaza, và hãy để mặc lão chế biến và thương lượng, bây giờ nên đi chơi cho thích chí, không thiếu đủ bao nhiêu đâu mà sợ dữ vậy. Tuy nghe vậy, cũng bớt lo, nhưng vì có lánh dè dặt, phải “liệu cơm gắp mắm” trước, nên sáng nầy nhịn cà phê, ghé quán mua hai bánh croissant (bánh sừng trâu) là 0,30 lira turc. Vừa leo lên xe ngồi nhời bánh, Marko huýt gió miệng và triết lý: “Tôi xem bộ ông có tánh làm khổ cho mình. Làm tới đâu hay tới đó, ông không biết hưởng hạnh phúc. Chuyện tiền phòng, ông quá lo, còn việc trước mắt, ông quên mất. Bây giờ đầu tiên, để tôi đưa ông lại hãng Air France dàn chỗ ngày mai đi Tel Aviv là xong. Rồi cho phép tôi đãi ông một bữa điểm tâm gọi từ giã và chúc ông còn trở lại Istanbul nầy một phen nữa và xin nhớ lão Marko biết nói tiếng Tây nầy!”. Rồi Marko làm y như lời, tôi trách móc lão bao nhiêu, bây giờ lại hổ thầm với lão bấy nhiêu. Marko lái xe lại hãng máy bay, chỗ dặn đàng hoàng rồi đưa tôi lại nhà hàng đãi tôi một đĩa bánh íromage ngon lành, tôi uống một chai nhỏ nước suối thay vì cà phê, rồi đưa tôi lại viện bảo tàng le Grand Sérail (cố cung của các vua Thổ Nhĩ Kỳ), mua hai vé vô cửa hết 2,50 T.L. Lúc ấy là mười giờ sáng, vả chăng chỗ nầy chứa đồ gốm men ngọc (céladon) nhiều nhứt thế giới, tôi đổ đường ngàn dặm là dốc xem có bao nhiêu nầy, và sự hiện diện của Marko đã hết cần thiết, vì đây là sở trường chuyên môn của tôi, nên tôi dặn Marko hãy lái xe đi kiếm mối thêm, và nhớ chiều 16 giờ, giờ đóng cửa viện, sẽ lại đây rước tôi và đưa tôi xem vài chỗ như lời giao đã định.
Nhà triết gia thầy đời Marko chưa nghe tôi nói dứt lời, mừng quá vụt siết tay tôi và phóng xe mất dạng. Tôi một mình ở lại đây, trong cái viện rộng lớn và vĩ đại mấy lần hơn Đại Nội Huế, tuy mới đặt chân chưa được mấy phút đồng hồ, mà hồn mơ mộng như cảnh cũ đã quen từ thuở. Tôi mừng như cá kia gặp nước, cái ước ao suốt một đời nay mới thấy hiện ra trước mất. Quả Grand Sérail danh bất hư truyền, nhưng biết làm sao tả xiết cho độc giả không phải ai ai cũng si mê đồ cổ như mình. Từ 10 giờ đến 16 giờ, tôi xem đồ gốm céladon và đồ men lam Đại Minh thật là mãn nhãn, rồi tôi bước qua cung kế bên, xem tiếp les Trésors des Sultans (kho tàng các vua chúa Thổ Nhĩ Kỳ), xem không biết chán, rồi tôi xem viện bảo tàng hàng lụa (le musée de lissus), và viện bảo tàng binh khí cổ (le musée d armes), chỗ nào cũng có ngăn có nắp, xem thôi thoải mái và không gặp nạn trặc cổ trặc hầu như xem viện Topkapi đã tả trong chương trước. Tôi đi một vòng trong Sérail rồi tôi trở lại Topkapi xem gốm và phòng châu báu, nhân viên đã quen mặt và không thâu tiền vô cửa nữa. Tôi than phiền khát nước, họ chạy kiếm đem lại tôi, tôi xin trả tiền, họ cười mà rằng ông uống thêm nữa thì tôi đi lấy, tiền với bạc làm gì, nghe đâu ông cũng là bạn đồng nghiệp mà.
Ô hay, xứ bakchich, mà sao chỗ nầy vô nhiễm ảnh hưởng của céladon trừ bá bịnh hay mình vốn là thằng hư, vu khống cho người ta?
Nhưng chuyện vui nào cũng đến lụn tàn. Trời mưa xối xả, tôi nhìn lỗ trống trên chót vót Topkapi thấy mưa bay đi, không rớt giọt nào xuống viện, tôi đợi phút nhân viên không để ý, tôi lâm râm cám ơn đứng thiêng liêng đã giúp tôi mãn nguyện, một đời tôi mới thấy hé một chút vui làm vầy, tôi đang thả hồn thơ luyến tiếc đâu đâu, thì ngoài cửa có bóng lão Marko lù lù đi lại. 16 giờ đã gõ, Marko lái xe đưa tôi xem la Citerne du Buillique là hồ chứa nước của đại giáo đường hồ rộng bao la, nhìn chỗ nào cũng cột đá chống nền giáo đường và nước ở đâu nhiều thế, hỏi thì Marko nói nước ấy như nước suối, rịn tươm từ đâu chớ không ai gánh nước đổ đầy!
Marko nghe tôi nói hôm qua đi chơi với tài xế Ba Lan, và nổi ghen, đưa tôi trở lại vòng Bosphore, chạy đến một vùng núi non chập chồng, và chỉ cho tôi xem một cảnh lạ lùng, đó là vách thành xưa lơ lửng gần đụng mây xanh, cong queo uốn khúc uyển chuyển như mình con mãng xà, khủng long chạy từ chóp núi nầy qua triền núi nọ. Vạn lý trường thành thì m¾t tôi chưa thấy, nhưng sánh với vách thành Huế, thì vách nầy kiên cố hơn nhiều. Mấy anh Thổ NhÜ Kỳ nầy có danh là đầu cứng như đá và vẫn cứng đầu hơn bất cứ ai (tête comme un Turc), xét ra không phải là ngoa, vì họ là cháu chắt chít chút của Hốt Tất Liệt. Đòng Khả Hãn anh hùng, họ quen cỡi ngựa, và để chống chân ngựa không gì hơn vách thành thật cao thật kiên cố.
Marko cay đắng; “Ông ở có hai bữa làm sao xem hết danh lam thắng cảnh của Istanbul bao la nầy. Tối ông rảnh không. Gái bây giờ không che mắt nữa. Lát nữa đây, tôi đưa ông xem đền cổ, chỗ nào cửa sổ đóng mành mành mắt cáo, chỗ ấy xưa nhốt mỹ nhân che mặt, và cũng lát nữa, xe chạy ngang nghĩa địa, mộ nào có cây cột gãy ngang nửa chừng, mộ ấy của đàn ông chúng ta, chúng ta chết tự nhiên, đàn bà họ bị khuynh thiên đảo địa, mất cây cột chống trời, thì tự nhiên trời nghiêng đất méo! Thưa độc giả, câu nầy Marko vẫn nói tiếng Pháp, duy tôi dịch cho dễ hiểu, và xin đừng lái lại.
Sau rốt, Marko đưa tôi viếng le Grand Bazar là Chợ Trời, đã có từ đời ông Nhạc ỉa cứt su. Le Grand Bazar lớn lắm, và ồn ào như ong vỡ tổ, từ sáng đến tối. Tôi thấy bày nhiều đồ cổ xứ nầy, cây đèn La Mã bằng đất nung, đồ chai pha ly cổ (verrerie ancienne), ý tôi định mua, nhưng sợ Marko bắt tẩy, vì buổi sáng mình than hết tiền. Tôi vớ một xâu chuỗi hổ phách, anh bán bazar giả đạo đức, dạy rằng hổ phách nầy giả tạo, nhưng tôi vẫn mua và trả lời ba trăm năm nữa nó sẽ thành đồ xưa.
Tôi xin Marko đưa tôi đến nhà Hachelte, nơi đây tồi mua một cuốn chỉ nam bằng Pháp ngữ khảo về Istanbul, giá 15 lira turc, sau đó ghé Hôtel Hilton hôm qua chúa nhựt đóng cửa, tôi hỏi giá một đĩa lớn có vẻ cổ, nhưng chế tạo vào đời Minh (1368- 1643) đây thôi, họ đòi 3000 lira hay là 1.500 NF, thế thì vẫn mắc hơn giá ở Paris và mắc hơn giá Sài Gòn rất nhiều, và bác sĩ Caubet nói “3 fois moins cher qu’a Saigon” là khác xa sự thật rồi! Trời nhá đèn đã từ lâu. Marko đưa tôi đi ăn thịt trừu nướng gấp ăn với cơm và tomates, hai đứa ăn hai đĩa, uống nước suối (cũng may vì Marko cữ rượu), tôi trả 9 lira. Marko đưa tôi về phòng, tôi cho Marko rảnh đến sáng mai, sẽ rước tôi ra ga. Đêm nay nằm thao thức trông mau sáng, đặng lên đường về xứ, chưa sáu giờ tôi đã dậy, đi tắm đi cầu, rồi trở vô sắp hành lý, soạn các món xếp vào va ly và cặp xách tay. Xem lại đồng hồ còn quá sớm, định bụng muốn dùng một buổi điểm tâm ai cho thịnh soạn, để từ giã xứ nầy, không chắc còn ngày trở lại đây nữa, nhưng ngại hụt tiền, thôi thì sẵn còn một cái bánh sừng trâu mua từ sáng hôm qua, bèn ngồi nhơi bánh ngon lành chờ sáng.
Hạnh phúc là đó mà tôi nào dè. Mảng chạy tìm hạnh phúc một đời, mà chỉ tìm được cái hư. Hạnh phúc ở kề bên lưng mà không biết ôm biết nựng, ăn được ngủ được, trưa tối thấy đói hoài, sao không ăn cho phỉ? Có liền bo bo, nay có dùng được không? Lời Marko nói trên xe, là phải; Tôi chỉ làm khổ cho tôi và tôi không biết với tay bồng hạnh phúc. Tôi ham chơi đồ cổ mà không biết thực hành. Ấy là hư;

- Ngày chót ở Istanbul, 2-7-1963 - Vừa bảy giờ rưới, tôi đã nê va ly khá nặng, tay xách cặp da, leo lên khách phòng và bây giờ mới biết phòng mình ở ném về từng dưới, và nhà hàng Plaza cất trên triền nổng nghiêng triền nên khách phòng thuộc về từng lầu trên chỗ mình nằm, lên tới đó thì lầu nầy chưa mở cửa, nhưng mình ở trong nhà nên thông thương dễ dàng. Cũng may là vừa lúc ấy, Marko và thơ ký của khách sạn cũng vừa bước vô, và Marko thị sự cho mình trả tiền phòng. Nếu cứ tính theo giá đã định, thì ở ba đêm (29-6, 30-6 và 1-7) là 3 đô la x 3 = 9 đô la cả thảy. Nhưng mình không có đồng quan Mỹ (dollar), nên xin trả bằng lira (bạc bản xứ) là 103 lira turc kể luôn tiền lì xì là 110 lira. Nhưng đến đây, Marko can thiệp, đưa ra lý lẽ phòng không cửa sổ, thiếu vệ sinh, không tính giá 3 đô la được, viên thơ ký nhà hàng đuối lý, phải chịu bớt. Xách hành lý ra xe, mừng chưa kịp no, định bụng trá Marko hai ngày là 100 NF, nhưng đến đây mới thấy thủ đoạn cao cường của tên da trắng nói tiếng Pháp nầy? Marko kèo nài, bây giờ nói thẳng tay chớ không lễ phép gì nữa, không úp mở gì nữa: “Ông phải cho tôi thêm 35 lira, vì tiền phòng ông trả nhẹ là nhờ công tôi, vả lại bạc turc ông đem về xứ cũng xài không được, vậy thì cho tôi còn có nghĩa hơn”. Nhưng chưa đủ. Giây lát, Marko xin thêm 5 lira nữa rằng phải biết điều với viên thơ ký phòng ngủ. “Ông có thể bớt tiền phòng của tên chủ nhà hàng, chớ không thể không lì xì cho tên thơ ký, nó chỉ nhờ có bao nhiêu hoa lợi đó”. Marko lái xe đưa tôi tới khách sạn Hilton là trụ sở của hãng máy bay ELLA (Compagnie aérienne turque), tôi vừa xách va ly vô hãng, thì ngoài nầy Marko vụt xe biến mất, không thèm ô-rơ-voa. Tôi đã nói xứ bakchich, chỉ có mộ danh từ để gọi: “ăn cướp “! Đến giờ nầy, Marko ló đuôi! Hay nói cách khác: “hồ ly hiện nguyên hình”. Nếu không có chuyện nầy, sao gọi: “Tây du”. Tôi ngồi trơ trọi nơi phòng rộng của hãng máy bay, đếm từng con kiến và từng đầu đinh trên cánh cửa và từng bao nhiêu đinh ốc gắn bản lề cửa. Đếm mãi không thấy xe đưa mình ra sân bay, nhớ lại không biết căn hay quả, mà hôm nay ngồi tại Istanbul nầy, mới ngày nào (13-6-1963) đến hãng Air France ở Place des Invalides, và chỉ nhờ có hai hạt ốc oan ương mua 40 bạc ở trước Chợ Mới Sài Gòn mà đổi được vé máy bay, thay vì Paris về thẳng Sài Gòn, đổi vé lại, được ghé Rome hai ngày (27 đến sáng 29 juin), ghé Istanbul ba ngày (29 juin đến 2 juillet) rồi từ Istanbul đi Tel Aviv để đón máy bay đường về xứ, mọi việc cũng tại mình có vay có trả, nay tiền hết đường xa, sợ về không tới nhà, ngán quá chớ không chơi. Tôi ngồi sật sừ nửa tỉnh nửa mê, ôn lại chuyện cũ, may quá có xe lại rước ra sân bay, kim đồng hồ chỉ 10 giờ nhưng vẫn chưa hết nạn. Đường chạy theo triền núi, xe xả hết tốc lực, thế mà bác tài xế Turc biểu diễn nghệ thuật buông tay lái đứng dậy gác chơi lên ghế ngồi, chống nạnh ngó hành khách rồi ngó cái đĩa nhỏ đặt trên nấp thùng máy gần ghế va ngồi, ý muốn nói “dâng bakchich” đi rồi ta sẽ cho các ngươi đi tới chỗ”. Thiệt là quân ăn cướp, một thằng ở ga Rome, một thằng ở lstanbul nầy, có lẽ đều là quân tiểu yêu đường đi thỉnh kinh lại sanh kiếp nầy. Còn bao nhiêu lira trong túi quần, tôi trút hết vào đĩa, cúng đạo lộ đường sá, bác tài nhoẻn miệng cười duyên, ngồi xuống lái xe chững chạc hơn ban nãy. Lòng tôi lâng lâng như trút được bao nhiêu lân khổ và hoạn nạn vào đĩa tiền, trái tim khỏi sút tuột lồng ngực, vị chi cũng nhờ thế lực ba đồng lira xứ bakchich. Tôi khổ nơi đoạn đường nầy, vì tuy lấy vé máy hay là của Air France, nhưng hành khách không đủ số, hãng tiết kiệm và tôi bị giật nợ, Aìr France mượn Air Turc chở giùm đoạn đường Istanbul - Tel Aviv, cái khổ của tôi là vì vậy. Xe ca tới sân bay nước Do Thái Israel là 15 giờ, bụng muốn viếng xứ nầy cho biết, nhưng nhân viên sân bay dặn đừng đi xa vì máy bay sắp đến. Ngồi nhìn phố Tel Aviv chỗ chung quanh sân bay, thấy lèo hèo mấy dãy lều lúp xúp mái tôle, thợ lui cui gắn dây điện chưa xong, thảy đều râu quai nón bó hàm, và mấy mục sư juif đồng bào của tướng độc nhãn Do Thái, có tiếng là ra trận không ai thông nổi, nhưng thấy tận mắt đây sao lượt bướt yếu xìu và ở đời không nên xét theo tướng mạo kẻo lầm. Lóng nhóng buồn thiu, mãi đến 18 giờ, chiếc máy bay khổng lồ Air France Boeing Interconlinental mới đến. Trình vé xách cặp da leo lên tìm được chỗ ngồi, thế là thoái nạn, khỏe thân, chỉ còn chờ đến nơi là xuống, khỏi lo đường xa xứ lạ hụi tiền. Từ giã mi, xứ bakchich đi rồi liếc tiếc. Tại Tel Aviv khám giấy thông hành nhưng không xét kiểm hành lý, thêm chúc câu “lên đường bình an”, cái nước mới tạo lập có mấy chục năm, mà lịch sự quá. Bây giờ đến lượt tôi ló đuôi hư, trong ví còn giấu 80 NF, mà than với Marko hết liền. Mua tại sân bay một chai whisky 3 đô la vì miễn thuế. Cất cánh 18 giờ, 21 giờ đến Bénarès, có loa gọi hành khách xuống phi cơ lên xe đưa ra ga, độ một giờ sau lại rước trở về phi cơ, làm như vậy vì mỗi khi máy thu dầu mỡ sợ nạn hút thuốc và đề phòng hoả hoạn. Bénarès là đất ấn, sông Hằng ở đó mà không thấy mặt mày. Rồi máy bay ghé New Delhi là kinh đô Ấn Độ, cũng không được viếng, tham quá không được.. Rồi đến Bangkok, bay thét bay cao trên mười một ngàn thước, bay ngang Biển Hồ (Tonlé Sạp) ngang thành phố Phnôm-Pênh, kim đồng hồ chỉ 13 giờ 35 là đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Lo khai đoan, trình giấy thông hành, không khí nhẹ tâng trời Tây đã dứt, xếp tiếng lang sa cất kỹ vì bớt xài từ bước chân khỏi nấc thang tàu bay. Không khí Sài Gòn oi ả từ đó cho đến bây giờ, càng ngày càng nặng.
Ghé musée lãnh lương hai tháng Năm và Sáu, trong túi xọc xạch có tiền trên hai chục ngàn đồng, mà sướng hơn ngày nay, đổi tiền một triệu cũ hoá ra hai ngàn, giấy mới. Quên mừng con và vợ hiền đứng đợi từ lâu.

(Viết theo hồ sơ cũ, ngày đổi liền 14-6-1978)


 

29 (tt)
Tong Yeou-ki


(Saigon - Taipei - Tokyo)
(28 Aout - 12 Septembre 1963)
Đông du ký (Sài Gòn - Đài Bắc - Đông Kinh (28-8 đến 12-9-1963)
Đây người Tàu ăn.


Tháng 9 năm 1963, tôi lại được chánh phủ Trung Hoa Cộng Hoà, do lời mời của phó tổng thống nay đã mất là ông Trần Thành, cho tôi sang viếng Đài Loan để bổ túc sự học hỏi về đồ gốm và đồ sứ cổ Tống Nguyên Minh Thanh, lúc ấy còn chôn dấu trong bụng núi ở Đài Trung. Luôn tiện tôi xin xuất tiền túi, sang viếng trong bảy ngày xứ Nhật Bản, để hiểu biết thêm về đồ đất nung của cựu kinh đô Tây Kinh (Kyodo) và viếng một làng nhỏ nhưng hết sức quan trọng đối với tôi là làng Imbé, chuyên chế tạo đồ đất nung theo phương pháp cổ truyền học được từ đời Tống Kể ra, về khoa khảo cổ thì tôi sút kém hơn nhiều người duy nếu nói đến cái ăn cái uống, thì ai đi tới đâu tôi đi tới đó, và nhờ trời cho, bấy lâu há dễ chịu thua ai. Tôi đã nếm cơm Tây từ sang đến hèn, từng thưởng thức món thịt trừu nướng theo kiểu Hồi ăn với cà chua (tô mát), duy chừng bước chân lên cù lao Đài Loan, là quê hương của Trình Thành Công, vì được ăn họ theo vua Minh, quốc tính, nên Pháp và hoàn cầu gọi Koxinga (Quốc tính gia), Đài Loan cũng là thuộc địa cũ của Nhựt, đến đây vì ăn khía nhiều ngày thịt và mỡ dầu của đầu bếp Tàu, thú thật khi ấy tôi mới sáng mắt học được chút gì về khoa ẩm thực và ý nghĩa cuộc sống của Đông Phương. Ở Đài Loan, ăn toàn thịt mỡ, xì dầu, ngày nào như ngày nấy, khiến bắt nhớ nước mắm hòn Phú Quốc và nhớ mấy bữa đạm bạc cơm đỏ, và rau của nước nhà quá xá. Có ai dè, trót sanh ở xứ mắm bò hóc xứ Xoài Cả Nả (Sốc Trăng), nên làm gì thì làm, cái gốc khó quên, và dẫu đi đến đâu, ăn được nếm được thức gì ngon cách mấy, tôi vẫn không quên tô bún nước lèo đất mẹ, nhứt là khó quên cọng bông súng Phụng Hiệp (Cần Thơ), khi thèm không có súng chỉ, dẫu bông súng trâu lớn cọng và cứng, thậm chí bây giờ ở xa Phụng Hiệp, hôm trước tạm dùng bông súng kiểng, đồng bào hụt tiền, cắt bông súng trồng làm cảnh, đem ra chợ Gia Định bán, bà xã mua về, tôi lùa một hơi bốn chén cơm gạo lức và hai tô súng óc nhóc, ngon lành, có cần gì bông súng chỉ. Kể về món mắm và rau, vừa cỏ lá hẹ, rau đắng, bông súng, bắp chuối hột xắt ghém, một điều kiện cần nhứt là phải có rau dừa mới đúng là ăn mầm và rau. Thứ rau gì quái gở vầng ăn thì thèm, nhưng khi dọn lên bàn, thấy ngán ngán. Có thứ rau dừa trơn tru sạch sẽ, lại có thứ, ác nghiệt thay ông trời, là rau dừa nầy mỗi bẹ, mỗi kẹt nách lá, đều kèm chêm một thứ bông trắng trắng xốp xốp, mỗi lần ăn, tuy vẫn rửa thật sạch, có khử thuốc tím, nhưng khi lùa vào miệng bắt nhớ chừng và tưởng tượng, nhớ mấy cục bông gòn đã dùng rồi và thường thấy trôi lều bều cạnh khu Dưỡng lão viện ruộng cỏ hoang, ruộng rau muống vùng Thị Nghè, ngồi xe buýt đi ngang thấy họ vẫn hái và mình vẫn ăn, mà chưa thấy ai chết vì nhiễm vi trùng rau dừa có kèm cục bông gòn trắng trắng, của trời xanh. Biết ăn, nếu thiếu món rau dừa, nách lá có kẹp cái gì lốp đốp trăng trắng ấy, thì bữa cơm mắm và rau dẫu ngon cách nào, tôi cũng cho là vô vị và còn thiếu.

Ngày thứ nhứt trên đường đi Đài Bắc, 11-9-1963


- Buổi đầu, trước khi lên đường, không thấy gì là hứng thú. Trước một ngày, vào chiều tốt trời, hai anh bạn học cũ trường Chasseloup đãi một bữa cơm Cầu Bang Ky, ăn chạo tôm, ngon mà phá bụng. Thứ tư 11 tháng chín, tám giờ sáng, xuống hãng CAT lấy vé máy bay, ghé cám ơn ông Nguyễn Hữu Nhứt ở Air France đã chu đáo lo lắng giùm mọi việc. Trưa về nhà ăn cơm dằn bụng trước khi bay, có gỏi cháo gà ngon đến, mà không dám gắp săn đũa, sợ nó lỏng bỏng bất tiện. Đúng 11 giờ, sau một trận mưa lớn, mẹ con nó đưa xuống nhà hàng Caravelle rồi chia tay từ giã, mình ăn xách hành lý theo xe ca của hãng lên sân bay Tân Sơn Nhứt. 13 giờ 35, máy bay cất cánh, bay thẳng thét đến Hương Cảng là 16 giờ 50, xuống sân, chờ thủ tục khám hành lý xong, lên xe về khách sạn Golden Gate, tôi đã nói rồi trong bài trước, duy phải nhắc bữa cơm Nga hôm ấy. Tôi ăn hai món, một món canh Nga và một thứ bánh nướng có phó mát rắc trên mặt, đã lạ miệng thêm nhẹ bụng. Khi tôi lồng khẩu một hớp Vodka, mặt vừa hứng, nhớ buổi xưa ông Tào thường trăng trước trận Xích Bích và râu chưa cháy, dòm trước nhìn sau, hai anh bồi bàn không cần biết đỏ hay trắng, duy thấy áo ủi thẳng thơm, cổ gài nút tới cằm, đứng thẳng lưng hầu hạ lễ phép, cách phụng sự tới bực nầy chớ không hơn nghĩ cho Ô Nam Dành (người Việt Nam) như mình làm vầy, nay được người Nga chính cống đứng dọn ăn, không hãnh diện ra mắt, nhưng tự khoái trong lòng, ai thấy.

Bữa thứ nhì trên đường xuất ngoại Đông Du, 12-9-1963


- Kể từ ngày biết viễn du, khi ở Pháp, khi ở Thổ Nhĩ Kỳ, không bước nào khổ tâm bằng khúc đường Hương Cảng đi Đài Bắc- Con đường chỉ cách có 1 giờ 15 bằng phản lực cơ, thế mà chờ chờ đợi đợi, mất gần trọn một ngày ở sân bay Cảng Thơm, lóng nhóng như chực cơm khách. Sáng sớm ở Golden Gate, vừa điểm tâm xong thì xe ca lại rước ra sân bay rồi bỏ trơ lại đó. Theo chương trình 11 giờ là máy bay cất cánh, như ai khác giàu tiền, thì cứ đi dạo cho đã, rồi đúng giờ đi xe có trả tiền ra ga còn kịp chán. Sau mới biết vì có bão nên chưa cất cánh được. Trong bụng thầm lo không biết một tiếng Anh lót đường, cũng không sẵn một tiếng Tàu chỗ vốn, cuộc hành trình xa diệu vợi, thời tiết lại xấu, thì giờ của mình vả chăng có hạn định, mà bắt đầu phí phạm kiểu nầy, thì uổng tiếc quá 12 giờ 30, có loa mời hành khách đi Đài Bắc qua phòng kế bên dùng bữa trưa, tuy không ngon nhưng phải nuốt phòng hờ. Cơm rồi có loa gọi hành khách hãng CAT đi Đài Bắc, hãy túc trực ra sân chực lên phi cơ. Đến phiên mình trình vé ra cửa, một cô chiêu đãi con cháu ông Tưởng, đầu đội mũ lệch, trâm một hơi tiếng Quan hoả xập xí xập ngầu, sau có người dịch lại mới hiểu cô bảo mình nán chờ phiên sau, rõ sướng chưa? Có mấy cha dòng Jésuite (dòng Tên), vừa quen trong bữa cơm ban nãy, đi được chuyến nầy, lấy mắt ngó mình và cười, duy lão I Pha Nho (Tây Ban Nha) ngồi chung bàn, đã lên được tàu bay, khi không thấy dạng mình, thì lật đật xuống thang trở lại tìm, hỏi han và an ủi hết lòng, khiến mình cảm động và có dịp so sánh, trên bước khách địa tha hương, kẻ tu hành lại không giàu lòng bác ái bằng một phàm phu lạ hoắc. Mãi đến 15 giờ chiều, mới đến lượt mình lên chuyến CAT-74, nhưng máy nổ nghe lớn và bay rì rì quá chậm, dòm ra ngoài cửa kính, mây bay vun vút, hột mưa đều đều, bụng càng thêm ngao ngán 17 giờ 15, đến sân bay Đài Bắc, mưa còn ướt sân. Có chư huynh đệ ở đây, Bác vật sử quán và Khuê viện chực từ lâu, rước về khách sạn đã dặn sẵn, dọc đường thấy cảnh ngập lụt nóc nhà tróc ngói, tường sập, cây đổ, thì quả phen nầy mình không biết lựa ngày phiếm du. Đến khách sạn thì gặp cảnh thành phố không có điện, dây đèn đứt, trong nhà đốt đèn cầy (nến) leo lét như có tang. Lát sau dọn cơm tối, bữa tiệc khá sang, nhưng chỉ bốn món; một tô canh giò heo chưa chuốt Bắc (thú), một đĩa nấm Đông cô (thảo), một đĩa gà luộc (điểu), một đĩa cá chiên (ngư), rất vừa miệng, nhưng món nào như món nấy, nêm toàn xì dầu có khoả một lớp dầu mè nặc mùi Trung Quốc. Lạ miệng, bụng đói, ăn ngon, xức đến bốn chén, nhưng nhớ lại ngại cho lá gan và bao tử. Đất chưa quen, đường chưa rõ, ngày mai và ngày mốt ra sao, chưa biết. Đương ăn đèn bỗng tắt, đốt đèn cầy trong, như bữa cơm ma. Tiệc xong, định từ giã để lên lầu nghỉ một giấc lấy sức, nhưng nào có được. Một ông xưng đại diện cho bộ Quốc gia giáo dục, mời ra xe chờ sẵn, dạo phố một vòng. Mình thối thác vì đã thấm mệt, vả lại trời đã về khuya, mười giờ gõ rồi, để sáng mai phải điệu hơn. Nhưng ông mặt mày buồn xo, thú thật một phen được ăn tiệc ngon, ông được chỉ định dùng ô tô chánh phủ đưa mình đi chơi và ông tháp tùng cùng đi cho sướng, nay mình từ chối, hoá ra ông thiệt thòi mất bữa được ngồi ô tô. Thôi thì vị bụng, lên ngồi cho ông vui, xe chạy vù vù, ông thì thích thú, tôi thì ngủ gục!

Bữa thứ ba trên đường Đông du


- Dè đâu theo lịch bữa nay là ngày đại kỵ vendteali 13, nhưng trái lại đi đến đâu cũng thành công mỹ mãn, buổi sáng làm gan tắm nước lạnh, mà không sổ mũi. Thay y phục rồi lên lầu có bán đủ món điểm tâm Tây, Tàu, Mỹ, kêu một tách trà và một đĩa nho tươi và bánh mì nướng thoa bơ, xong rồi chưa thấy ai lại rước, bèn xuống phố thả bách bộ trước nhà hàng. Thấy bày bán, nào thịt bò khoả hủ tiếu, mỡ rán, tào hũ chiên, y như trong Chợ Lớn không khác, đặc biệt là có thứ đậu hũ mùi rất hăng, đánh hắc vào mùi khi đi ngang hỏi ra đây là đậu hũ để lâu (đến có giòi), nghe nói biết ăn thì khoái khẩu lắm, định bụng muốn ngồi xề lại làm thử cho biết, nhưng ngấm trước xem sau, không chi đến đây kể như phương diện quốc gia, làm như vậy coi sao đặng? Ôi, cũng là sĩ diện hão, mình chưa biết hưởng hạnh phúc. Nếu trời cho có dịp, phen khác mấy sẽ biết tao! Trong chương trình, bữa nay phải viếng Bộ giáo dục, Bộ ngoại giao, Bác học viện, Á châu đồng minh hội. Sử quán Việt Nam. Khoa học quán, Khổng học hội, Trung ương thơ viện, cũng may: đến đâu đáp ứng không vấp váp. Trưa cùng anh em đồng nghiệp Quốc sử quán và Bác vật quán cùng dự tiệc; cũng gà hấp, nấm xào, canh dê, cá chiên, cũng dầu mè nổi trên mặt xì dầu. Tối lại, tiệc long trọng hơn, có tám người và tôi, đãi tại Bộ ngoại giao gồm; 1) Bao Tôn Bành (Ignatius Pao), giáo sư kiêm Bác vật quán quán trưởng (mất); 2) Vương Du Thanh, Quốc sử bác vật quán chủ sự (sau thế cho ông Bao); 3) Trang Phục Tổng (Choang Fu Trung), Trung ương đồ thư quán quán trưởng; 4) Cheng Cheng, tác giả một tiểu thuyết Pháp văn “La mère" (ông nói trùng tên với tôi, và ông xưa là "Sển Thành"); 5) Một quan viên cao cấp Bộ ngoại giao, khuyết danh; 6) Trương Long Đình (Loan Chang), giáo sư nhân viên của hội Unesco; 7) Trần Chí Hoàng (Chen Chinh Hoang), Đài Loan tỉnh lập Bác vật quán quán trường; 8) Diệp Hải Minh, sinh viên đại học canh nông, đã đậu kỹ sư, người Đà Nẵng, thạo Quan hoả, giỏi tiếng Anh và nói được tiếng Phước Kiến, làm thông dịch cho tôi suốt buổi Đông du (ông Minh bây giờ ở đâu?); 9) Và kẻ hư nầy.

Tiệc dự chín người, dọn chín món vĩ vèo; bốn món ăn chơi, chả cá, cá chiên, bí đao hầm, cơm rau, chè ngọt, rồi trở lại món mặn, hột vịt chiên dùng với bánh bao to tổ nái và đặc ruột, ăn một bánh đủ no trọn ngày, hơi lên tới cổ.

Bữa thứ tư trên đường Đông du


- Ngày nay kể ra là ngày thứ hai ở Đài Bắc. Lại thành công nhột phen nữa. Sáng 9 giờ 30, có công xa đến rước tại Viện Hành chánh ra mắt phó Tổng thống, Vương Vân Ngũ tiên sinh. Ông thay thế cho phó Tổng thống Trần Thành tiên sinh, mặc dầu sức khỏe không tốt nhưng Trần đại nhân cố gương đi chẩn bần và vấn an dân chúng các nới bị lụt, tôi vô phúc không chào và cám ơn người được, nay người đã tạ thế. Vương phó Tổng thống, người quắc thước, trông giống Clémenceau trong tương vẽ với cặp chân mày bạc trắng, chuyện trò niềm nở. Đến trưa Trần Chí Hoàng mùi dùng bữa riêng. Vì ông là người Quảng Đông, nên tôi gặp lại heo quay, xá xíu, vịt quay và nhiều món khác y hệt bữa cơm tàu trong Chợ Lớn.

Cơm rồi là 2 giờ chiều, về phòng nằm chưa nóng lưng, 3 giờ có xe rước đi Dương Minh Sơn, ra mắt cụ Trương Kỳ Quân, trước là Bộ trưởng giáo dục, nay là Chủ tịch viện quốc phòng, trên có Tưởng Tổng thống rồi kế là ông. Tiên sinh bổn thân đưa tôi đi xem khấp Viện Quốc phòng, đưa lên lầu ngắm cảnh Dương Mình Sơn. Một mùi khẳn khăn khai khai bỗng bay lại, khiến tôi bất kính, ngầm tưởng đó là mùi đặc biệt Ba Tàu, ở đâu cũng có. Sau rõ lại là tôi lầm to, có tư tưởng không tốt. Dưới Dương Minh Sun có mỏ diêm sanh, lưu hoàng. Vì ban nãy có mưa nên hơi diêm bốc lên, nên có mùi đặc biệt thum thủm. Tôi là thằng hư, nghĩ bậy. Chỗ nầy, sơn thanh thuỷ tú, có suối nước nóng trị được các bịnh ngoài da nhứt là ghẻ chốc. Một danh thắng, ngày lễ và chúa nhựt, trai thanh gái lịch dập dìu, mấy ông Mẽo đến đây tắm ghẻ. Buổi tối, Trương tiên sinh thết tiệc, đãi bảy người, gồm chủ nhân là ông Trương Kỳ Quân, ông hiệu trưởng Hành chánh, ông Bao Tôn Bành, ông Diêu Cốc Lương, thông dịch viên Diệp Hải Minh, một người bạn riêng của Trương chủ nhân, xưa ở Hải Phòng, mẹ là người Hà Nội, thế là ông lai Tàu, và tôi Tàu lai. Tự Trương đại nhân đứng vẻ cá, gắp từ món ăn, để vào chén riêng rồi trao cho hiệu trưởng Hành chánh kiêm bí thư, trịnh trọng dâng tận tay tôi. Thật là quá ư trọng thể, làm tôi ngượng nghịu, những thẹn thuồng, nghĩ cho mình đâu có xứng đáng được một học giả kể đồng hàng với Hồ Thích, biệt đãi như vầy. Nhưng họ đã vẽ viên như vậy, mình biết làm sao? Bữa cơm không có rượu. Lạ một điều là ăn năm món mặn xong, kế dọn một món ngọt, thịt quay nấu đường, mình tưởng là chè, lúc nhỏ ở Bãi Xàu, đã từng nếm và biết đó là món "ngào bà", ăn ngà bà rồi, mình mừng tơn, cũng vừa đủ no, ngờ đâu chủ nhân sai dẹp đĩa chén cũ và bày đĩa chén mới và bày thêm năm món mặn khác nữa, trong số có một đĩa mì to tướng và một đĩa có bảy cái bánh bao đặc ruột lớn bằng trái bưởi Tân Triều (Biên Hoà), thứ trộng. Khách đứng dậy lễ phép hỏi ăn ngọt rồi sao trở lại ăn mặn, chủ nhân cả cười, trả lời rằng nửa tiệc trước là ông thay mặt Trần Tổng Thống đãi người khách Miền Nam, còn nửa tiệc sau là của ông chào người bạn mới, Trần Tổng Thống là người phương Nam nên ban nãy dọn thức ăn phương Nam, nay ông là người phương Bắc, xin khách hạ cố nếm cho biết hương vị của món ăn tệ phương. Cha mẹ ôi! Tôi đâu có được hai cái bao tử như loài nhơi là bò hay lạc đà. Nay chủ nhân đã quá yêu, dâng tận tay một cái bánh bao nguyên làm vầy, và tôi đã cúc cung nhận lãnh, tôi phải ăn dộng làm sao cho hết cái bánh thì làm, cha chết mẹ chết rồi, nay có tử mạng sa tràng thì cũng phải ráng chịu. Có người đã căn dặn trước, phong tục xưa tại xứ nầy không cho phép từ chối và không cho phép bỏ mứa, bỏ mứa và từ chối là vô lễ không vô lễ nào bằng. Hèn chi, bây giờ nhớ lại tôi mới hiểu, năm ngoái có một ông bạn thân (ông Phan Thế Hi), ông từng sang đây trước tôi, ông ăn có mấy bữa cơm Tàu như vầy, rồi chuyến về, nhớ đâu ông vô nhà thương Grall, nằm mấy tháng gì đó rồi đi nằm luôn nơi Bắc Kỳ nghĩa trang, không chờ dậy. Ông có thổ lộ với tôi, đang giữa tiệc mặn, ông cũng tưởng biết chữ Hán; ông bút đàm, lấy viết viết mấy chữ, tưởng xin một tô mì chay, nào dè đọc rồi, thấy dọn ra nguyên một cỗ tiệc khác toàn là rau nấm, xối toàn dầu phộng dầu mè. Rồi cũng vì rán thủ lễ, ông nhậm trọn bữa tiệc nầy rồi cớ sự như đã biết. Phan cố nhân đã cho tôi một bài học, gương bánh xe trước gãy, xe sau nhớ hoài. Mãn tiệc, Trương đại nhân sang thư viện lấy một cuốn của ông soạn, nói về địa dư và phong tục Việt Nam, đề tặng tôi ông hứa chừng nào bộ biển khảo về Gia Cát Vũ hầu ông viết xong, sẽ gởi qua làm kỷ niệm, độ chừng bốn chục tập, nay chỉ rồi nửa bộ. Ơn người quân tử, đến nay chờ chực nào thấy tin. Chúc ông bình an vô vạn. Tiệc mãn rồi, ông sai người nhà chụp vài bức ảnh, rồi tự đưa tôi ra cửa, mở cửa xe cho lên, thiệt là quá trân trọng. Đến nay áy náy chưa quên.

Bữa thứ năm trên đường Đông du Đài Bắc


- Bữa nay chương trình chừa cho vài giờ thong thả, nên thừa dịp, điểm tâm xong, tôi cùng ông bạn nhỏ Diệp Hải Minh, mua sắm vài món và dặn làm cho một bộ bài mã tước để về kỷ niệm. Cám ơn tân kỹ sư Diệp, có lòng tốt, tận tình phiên dịch và giúp đỡ trên bước đường xa lạ, ông bạn thanh niên lớp mới thú thật được cùng dạo chơi mấy bữa và bước chân vào những nơi thuở nay chưa được vào mấy ngày yến tiệc linh đình đã là toại kỳ sở vọng, ơn và nghĩa sau nấy có dịp tái ngộ sẽ hay. Từ ấy bặt tăm nhang cá, cuộc phong ba sau đó có vướng bận chân em chăng? Còn qua thì như trái chính Cũng bữa nay, gặp bảy cây ngọc Như Ý, đã nói rồi.

Trưa dự tiệc tại Trung ương thư viện, mình mặc bộ nhung y duy nhất đã phai màu, nhuốm bụi phong trần từ mấy tháng Tây du, dòm lại chung quanh, mười một vị tân khách, áo rộng thùng thình là cựu học giả lớp xưa, bộ đại phục thiệt kẻng là tân nhân vật đào tạo từ Mỹ hay Đức mới về, ông cầm quại lông, kính gọng đồi mồi là chuyên gia thâu thanh được đủ giọng loại chim biết hát, thảy đều học giả thứ thiệt, chạy từ lục địa qua đất Đài Loan nối chí Trịnh Thành Công, duy mình là gì, một con gà đem ra đấu trường, không nên khoe vảy khoe lông, chờ xáp trận sẽ biết. Cũng may, cha mẹ cho một gia tài chưa sút ai về nhứt ẩm nhứt trách. Mãn tiệc về phòng chưa thấy khỏe, đúng 15 giờ có công xa rước đi Đài Trung xem cổ ngọc, nhưng xe ô tô không thể chạy suốt và phải sang một đoạn đường qua tàu hoả, vì cầu kỳ bị trận bão vừa rồi đã hư sụp nhiều nơi. Thảm nỗi chưa có xe lửa nên phải chờ, mất thì giờ đáng tiếc. Lóng nhóng ở Tân Trúc đợi xe, thả một vòng chợ, thấy có một ngôi chùa cổ y hệt kiểu chùa ở Chợ Lớn hay chùa ông nơi ngay chợ Gò Vấp, Hóc Môn, có một quán đó, là lều phải hơn, che bòng bong vải Hoa Kỳ, hai chị má trái đào bán dưa, có trái xẻ hai, ruột đỏ lòm thấy bắt thèm. Ông bạn dẫn đường, nghị sĩ Diêu Cốc Lương mời thưởng thức một tô mì Tân Trúc. Nuốt chưa qua khỏi nóc giọng đã thấy kém mì Cây Nhãn Đa Kao và mì Cầu Hang Gò Vấp. Xét ra thuở nay mình quen nếm mì của người Quảng Đông, nay gặp mì Tân Trúc là một xóm quê của cù lao Đài Loan, chịu ảnh hưởng nhiều của tỉnh Phúc Kiến, xưa tụi lính Đài Loan theo gót binh Nhựt qua bên ta là Nhựt lô canh, chính là dân ăn mì dở nầy; muốn cho lịch duyệt phải nếm đủ mùi, từ mì Quảng Đông, mì sợi (mì sụa) Phúc Kiến, và qua xứ Tiều (Triều Châu) thì phải nếm tô hủ tíu cá gà có đủ giò heo phá lầu và chả cá dai với chả tôm cắn giòn trong miệng. Người Tiều cũng chuyên môn làm cọng bún dai, ta quen gọi bún Tàu, nhưng người Bắc đã giựt nghề với tô thang có nêm cà cuống và chút mắm tôm, quốc vị. Mảng bàn tán thầm một mình mà không đủ giết thì giờ dư, mãi đến 8 giờ 30 tối, mới có tàu hoả đến rước và chạy suốt một hơi đến 1 giờ khuya mới đến ga Đài Trung. Anh em đưa về hội quán dành cho các giáo sư Đại học đến đây nghỉ hè. Tôi nhận thấy chánh phủ lưu vong Đài Loan rất sáng suốt, không phung phí tiền viện trợ Mỹ, nếu có hà lạm thì tôi chưa biết, duy đáng khen là họ không tham lam ích kỷ bỏ túi riêng, và biết cùng nhau cộng hưởng phần nước, lộc trời dành, tỷ như mời mọc nhau mỗi khi có quan khách xứ lạ đến đây, hoặc chia cắt phận sự cho các chức viên cao cấp, nghị viên đưa dắt dẫn đường quan khách xứ lạc để có dịp ngồi công xa, dự yến tiệc, cùng "nếm của chùa" và vì nước Pháp không có chùa và vì xưa có bà hoàng là ăn to xài lớn, nên Pháp có thành ngữ tương đương với phí phạm của bố thí nhà chùa là "aux frais de la princesse". Ham nói dài quá gần lạc đề, tôi muốn khen đây là chánh phủ Đài Loan biết xây cất nhà nghỉ mát cho nhân viên và cái cao lâu tôi tạm nằm trong vuông phòng khang trang mát mẻ nầy, lấy kiểu cung điện cổ nhà Minh Thanh, mái cong cội đỏ ngói xanh, rất đặc biệt Tàu, không như cái gọi là dinh Tổng thống cũ của ta, nói mà tủi, như cái bánh pa-tê bị mắc mưa, không giống Mỹ, không giống Tây, quên mất kiểu cung điện ngoài Huế, và chỉ văn minh ở nơi cầu xí tối tân, đã có người lầm rửa rau muống trong ấy, vì nó có vòi nước nóng vòi nước lạnh. Và "ối giời ơi", sao mà nước nó trong khe mát thế! Đánh một giấc tới sáng, trừ bữa cơm tối.

Bữa thứ sáu trên đường Đông du, tại Đài Trung


- Xin cho phép nhấn mạnh hôm nay là 16-9-1963, ngày thứ sáu trên đường Đông du, nhưng đúng là ngày thứ tuổi trên đất Đài Loan, và cũng là ngày đặc biệt nhứt trong đời tôi, riêng trong việc khảo cứu cổ ngoạn, vì chính tôi được mắt thấy và tay rờ rẫm những gì ngày xưa các vua nhứt là Kiền Long, từng chạm thơ ngự chế, hoặc "ngự dụng", "ngự lãm"; viên ngọc ấn của Thanh Kiền Long, nói là năm viên quốc tỷ phải hơn, vì là một chùm năm hòn ấn ngũ sắc, cái màu ngọc bích, cái màu "dương chi", mỗi ấn khắc chữ khác nhau, và năm ấn liên lạc nhau bằng một sợi dây ngọc trong suốt như thuỷ tinh, năm ấn nầy quả là một món báu thế gian duy hữu nhứt. Ngoài ra, và tôi thích nhứt, là đồ gốm men ngọc (céladon) lưu truyền từ gốm Bắc Tống (960- 1127), trong, nặng, tiếng thanh như ngọc, gốc Nam Tống (1127 - 1279) quí báu không kém, thêm nhuộm mùi thiền, gia vị mùi chán đời (vì thua trận) của đạo Lão Trang, những báu vật nầy tôi đã nói rồi, duy cần nói thêm bữa ấy tôi được ngắm nhiều viên ngọc từ trước cho đến ngày ấy khách nước ngoài chưa được xem, và ắt ngày nay đã đem về triển lãm nơi bảo viện Tôn Dật Tiên ở Đài Bắc, thay vì cất giấu nơi Đài Trung nữa.

Vì dùng mãi dầu mỡ quá suốt mấy ngày ròng rã ngán quá, nên trưa hôm nay, tôi ngỏ ý xin cho tôi một bữa cơm đạm bạc đậu hũ dầm trong nước mắm Tàu và ớt, nếu thơm thảo thêm gà luộc cải bẹ xanh, hay vịt khía hay xông khói tuỳ ý chủ. Diêu Cốc Lương đại diện chánh phủ, gật đầu hứa chắc đàng hoàng, nhưng bữa trưa như buổi tối, vẫn y cựu lệ, gà dê heo vịt, con quay tươm mỡ, con nướng vàng lườm, tôi hỏi sao không thấy đậu hũ, Diêu tiên sinh nhe răng cưới và thối thác đậu hũ Đài loan không ngon nên không dám lấy ra đãi khách của Trần Phó tổng thống và dặn tôi ráng chờ khi nào về lục địa, sẽ mời tôi qua đền bù đậu hũ canh gà Tự Do.

12 giờ trưa, lật đật từ giã hai ông học giả giữ kho tàng giấu trong bụng núi hối hả ra chợ dùng một bữa xoàng hấp tấp, cho kịp lên xe về Đài Bắc. Rất may là chuyến về không trục trặc, cầu kỳ sửa xong, chạy một mạch 16 giờ 30 là xe tới chỗ. Bảy giờ rưỡi tối thay đồ lớn đi dự cơm khách nơi Bộ ngoại giao với mười một nhân vật danh tánh nghe như trong tiểu thuyết. Cũng y một thực đơn như mấy bữa trước, duy cách trình bày có khác. Nhưng cũng một kiểu với cao lâu sang Chợ Lớn; một bàn tròn rộng, mười hai người vây chung quanh. Bàn có hai từng, một từng sái với khách ngồi thì bày chén muỗng trên nấp trắng tinh, trung tâm có một từng cao hơn từng kia độ một tấc Tây và có trục xoay tròn như bàn thợ nắn đồ gốm Khi dọn tô canh hay đĩa cá, nếu chủ muốn mời khách hay khách muốn đáp lễ mời chủ, thì chỉ cần xây bàn giữa cho tô canh đĩa cá chực đúng ngay chỗ người được mời, khỏi cúc cung đứng thỉnh cầu theo lối xưa. Định cho cái bao tử hổm rày đã tập quen sực chứa, nên năm món mặn, cộng một chén chè ngọt xả hơi, thêm vào đó năm món mặn khác, là mười một món cả thảy mà chưa thấy ứ?

Bữa thứ bảy trên đường Đông du cũng là ngày chót trên đất Đài Loan
.

Bữa nay rất rộn rịp, chạy xe từ giã các nơi. Trưa ăn cơm Tây nơi sứ quán Việt nam do ông Nguyễn Công Viên mời, và gặp lại cụ Trương Kỳ Quân.

Mãn tiệc 15 gỉờ, để luôn đại phục sang “Hội quán bác vật lịch sử quán”, ứng khẩu diễn thuyết bằng Pháp ngữ, thuật lại cái hay của đồ sứ men lam Huế (les porcelaỉnes anclennes decorées en bleu, surnomnées “bleus de Huế”). Không biết thính giả có hiểu hết chăng, và nghĩ cũng ngược đời; người Việt nói chuyện với người Trung Hoa bằng tiếng Tây? Nhưng cũng là một lần khỏi chuyển qua sự thông dịch của ông bạn nhỏ ở hết lòng Diệp Hải Minh. Tôi có đem theo và trình bày vài món sứ đặc sắc, họ chuyền tay nhìn, nhưng cũng trái cựa thay, đó là người Trung Hoa thế kỷ "Hai mươi" nhìn ngấm đồ sứ của nhà Mãn Thanh họ ghét, làm cho các hoàng đế nhà Nguyễn ở xứ Huế.

Sau buổi mạn đàm, ông Bao Tôn Bành trao tận tay bằng sắc Hán văn, tôi được mời làm cố vấn cho Bác vật quán Đài Bắc, thẹn và cười thầm thằng dốt lãnh vai quân sư! Tiếng Anh không thông, tiếng Hoa không biết, chữ nghĩa mù tịt rồi làm sao nói chuyện mí nhau? Nhưng ở đời chưa phải đó là một chuyện tréo cẳng ngỗng. Nhỏ như xứ mình mà lớn lối, xưng nào Bảo tàng viện, Tối cao pháp viện, cái nhà bé tí tẹo mà treo bảng "Nhà văn hoá”, người ngoại quốc giao trả một viện nghiên cứu về mấy con vi trùng sanh ra bịnh, từ ông bác sĩ đến cô giám đốc, bấn xúc xích, không biết dịch làm sao cho ổn, Institut National de microbiologie là "quốc gia tối trùng hay Vi trùng quốc gia?" Ôi cũng đều sâu dân mọt nước.

Trong khi ấy, xứ nầy, chỗ nào cũng xài một chữ "quán"; Bác luật quán quán trưởng, Lịch sứ quán quán trưởng, thiệt là bể đầu. Khoa bảng xuất thân làm gì, gặp việc bỏ chạy có cờ. Một ông khác nếu còn ở đây, đã rắp ranh toan xưa "Thống chế" ôm vàng cả tàu bay chở không nổi, bây giờ ông ở đâu? Bắt tay từ giã và cám ơn mọi người, rồi mượn xe Bao quán trưởng, ra phố lựa mua năm ba pho truyện Tàu vài cục ngọc cổ, ống tiêu ống sáo và không quên bộ bài con chim. Quên nói ở đâu cũng có lính mật. Tôi mua được một chiếc nhẫn ngọc bạch bích kiểu cá rá "Chiêu Quân quá quan". Tối dự tiệc ông ngoại giao đã biết vì bác tài học lại. May thời, sau khi ông nói ngọc cho phép mua mà không cho phép đem ra khỏi nước, tôi hốt hoảng ông cười xin lượn chim nhẫn đeo chơi, và sáng bữa sau ông giả đò tiễn đưa trễ chờ khi máy bay gần rút thang, ông chạy vụt qua mặt nhà đoan và leo lên thang bắt tay từ giã tôi, lòng tay ông trả lại chim cà rá ngọc.

Tối dự bữa tiệc tiễn hành, thết tại Bộ giáo dục, bữa nay hội gần đủ mặt những người từng quen buổi Đông du nầy. Vì là việc chót, nên thật là cởi mở, riêng tôi rất mừng vì ngày mai là thoát nạn, khỏi lo cho cái dạ dày làm khó dễ hay lá gan chúng chứng, nhất là nhớ mai nầy sẽ sang xứ có mấy cô gái khẩy tỳ bà tóc giắt hoa anh đào. Bởi thích chí quá nên uống không thôi và ăn không ngừng đũa, cười cười dóc dóc rất là tự do. Mỗi lần nói được một câu ý vị là có một người đứng lên mời "can pei" (tức là cạn bôi). Theo lệ bắt buộc, khách và chủ đều đứng lên, uống cho cạn chén. Tiệc gần mãn, tôi chờ các quan viên đà khá khẳm, tôi bèn ứng khẩu tạ ơn và mời ngược mỗi ông đều cùng cạn bôi; hẹn một ngày tái ngộ, hoặc ở đây, hay ở lục đỉa hoặc ở Sài Gòn. Bao quán trưởng đáp từ, trong câu tiễn biệt ông cắt nghĩa sở dĩ đãi tôi liên tiếp heo dê gà vịt, cơm bánh, mì và mì v.v... Ông tiếc tôi ở đây có năm ngày mà Trung Hoa có đến mười tám tỉnh, chớ chi tôi nán và ở đủ mười tám ngày thì hoạ may tôi có thể thưởng thức đủ mười tám cách nấu và dọn của người Trung Quốc, cháu con Phàn Khoái, Hạ Hầu Đôn. Bao quán trưởng, mặt hừng hừng, hỏi vì sao không thấy tôi say và vì sao mời bao nhiêu tôi cũng nuốt vô hoài! Tôi khiêm tốn đỡ lời, không phải tại tửu lương mà chính nhờ rượu Đài Loan rất hiền chén ngọc ở đây cũng đinh và bé, và bí quyết bí mật của tôi là "thủ lễ", khác nào đi xứ la như gái về nhà chồng, phải tấl kính tất giới. Như chư huynh đệ vẫn thấy: gấp sẵn vào chén thì tôi lua chứ tôi chẳng bao giờ dám xúc com lia, nhất là mềm đũa. Từ ngày lìa khỏi nhà luôn luôn nhớ đường về còn xa, không nên khinh thường như lúc tại gia, lại nữa , ra đi đến xứ có người cao học hơn mình, thì nghe ngóng học hỏi chớ trai gì "Ban Môn lộng phủ". Cũng là tiệc chót, tôi đánh bạo khen rằng quý quốc vì nhiều lạnh hơn ấm, nên thích chiên xào thêm mỡ thêm nóng cho máu huyết. Nước Nam ôn đới, nên người dân quen lê hoắc, thậm chí bộ lòng con lợn, con gà con vịt, đều luộc chớ ít rán mỡ. Quý quốc là nước lễ, nên đứng gấp từng món ăn và nâng chén đưa đến tay người khác, khiến nhớ tích ngang mày Mạnh thị, làm sao đáp lễ cho vừa. Xứ tôi cởi mở thật tình, và bao tử nhà ai như của nấy? Tôi lại khoe con vịt sen ở miền Nam đất Việc. Nhờ ăn lúa non và tép mòng dưới ruộng, vịt sen mập và nhiều mỡ quá, nếu chiên hay quay đều hỏng, mỡ tươm ra ăn ngán, nên phải ăn vịt sen luộc, chấm với nước mắm gừng mới là người lịch duyệt, biết thưởng thức con vịt có tiếng là thịt mềm.

Tôi bắt tay từ giã, khách và chủ dường như bận bịu, lần chót tôi nói chữ, cũng là câu sáo: "Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định".
(16-6-1978)



Thời gian: 27/08/2007 8:54:56 CH

 


30


Đây, người Nhật ăn, hay là "Bữa tiệc chín con tép quèn bên nước Nhật". Mỗi khi thấy một người nào cũng như mình, mà tốt phước được toại nguyện sướng hơn mình, để an ủi, ta thường dỗ êm thân phận, bằng câu: "Thằng hề được làm vua!" Trước khi đạt chân lên phần thế giới ông Tưởng cai trị, lòng vẫn ái ngại nỗi ngôn ngữ bất đồng, đã vậy một phần lo khác nữa là thuở nay mình dối đặc cán mai, chữ và tiếng ăng lê không từng học may phước làm sao chánh phủ Đài Loan đã sắp đặt trước, lo giùm mọi việc; ẩm thực khỏi bận tâm, mỗi khi phát biểu ý kiến, cứ nói tiếng mẹ đẻ đã có người mẫn tiệp thông dịch lại, lột ý mình lựa lời hay đổi lại sang tiếng bản xứ, thiệt là trăm phần chu đáo, hèn chi lúc ở Sài Gòn, toà lãnh sự Trung Hoa trấn an; "Ăn mì có mì, muốn cái gì, cũng "bao" hết!".
Ở trên đất Cộng hoà Đài Loan, tuy vậy bề nào cái sợ cũng có chừng mực, vì từ nhỏ đã biết; "chìa pừng" (tiếng Tiều). "xực phàn" (tiếng Quảng Đông), có hai tiếng ấy bỏ túi, qua bên Tàu khỏi lo chết đói, vì dịch ra Hán tự, là "thực phạn": ăn cơm.
Khổ một nỗi, nay đặt chân lên đất Nhật, lúc ra đi quên hỏi thăm trước vấn đề “tứ khoái “, may thay khi qua đến sân bay Đông Kinh tay xách va ly, mắt láo liên, lòng thon thót vì lạ nước lạ non, tiền túi vẫn nhẹ, đang khi bối rối, thần hộ mạng, hai bạn Pháp hiện ra trước mặt; giáo sư thạc sĩ Pezeu, trước có dạy Đại học Sài Gòn, nay có gia đình bên nầy, vốn là bạn thân cũ, được thơ tôi nên ra đón, cùng đi với Merken, ông nầy là nhân viên hãng bay ở Paris, sang đây vài ngày viếng đất Phù tang, và cùng với P, là bạn đồng song cũ.
Nhờ vậy, từ 19-9-1963 cho đến 26-9-1963, tôi tha hồ xài tiếng Pháp, khỏi lo tiếng Tây y bị bỏ mốc meo. Và khỏi ngợ miệng "nai kà, nai tơ, dô tô nài", và mặc sức; "búa lê ba"; pourquoi pas?, "Ba xi tú"; Pas du tout!
Quả ông trời còn độ và sanh ra một tên già mũi xệp xứ Ba Thắc (Sốc Trăng) có duyên kiếp trước, nay ý hợp tám đầu với hai anh mũi nhọn mắt xanh xứ Pha lang sa; vui cùng vui, cười cùng cười, khi nằm nghỉ lưng phòng trọ, cùng tiếu lâm hài hước, tiếng cười dội vang gần bể phòng. Từ cái bồn tắm, anh Merken thân lớn như con trâu nước hippopotame, vừa đặt cái lưng vào bồn bao nhiêu nước Nhật sợ hơi Tây, lật đật từ trong bồn, tràn ra, biến làm trận lụt hồng thuỷ, chảy đầy sàn gác, chảy xuống sa lông tầng dưới, báo hại chị thơ ký khách sạn la chói lói, chúng tôi tạ lỗi nhe răng cùng cười. Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Merken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa “lù coi", đứa “lắc cọ”, áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười. Tôi vốn có tánh kỹ lưỡng từ lúc nhỏ, và hay lo chuyện bao đồng. Nếu sáng hôm sau có việc lên đường đi xa, thì trọn đêm trằn trọc không ngủ được, sợ trễ giờ hụt chuyến tàu, hụt chuyến máy bay. Vì vậy mà với hoài, không với tới hạnh phúc; Trái lại, anh Merken vốn sanh trưởng xứ lạnh nên quen tật ngủ súp lê măng (supplément). Còn khỏi nói anh "voi cầm bầy" Pezeu, anh không khi nào biết vội vã gấp gáp là gì, tỷ dụ chuyến ba đứa đi viếng cựu kinh Kyoto, ở xa mút tí tè, cách tân kinh Tokyo cả ngàn cây số tàu hoả thì rục rịch tách bến, bánh xe đã lăn, thế mà vào phút chót, anh Pezeu, còn nhảy xuống xe chạy lại quán trong ga mua bao diêm và gói thuốc lá, con tàu thoát chạy vùn vụt, anh Merken và tôi, hai đứa ngó nhau thốn thốn trong lòng, chỉ sợ thiếu con voi cầm bầy thì cuộc phiếm du mất hứng Merken và tôi chẳng qua là đứa câm dắt thằng mù? Hai đứa tôi chưa nói lời nào, bỗng Pezeu lù lù từ sau toa xe chót huýt sáo đi tới, tôi ỷ y tuổi già được nể, tôi cằn nhằn sao anh suýt làm sút trái tim của già, nhưng Pezeu cười chua chát: "Có việc chi mà vội! Bị vậy anh mãn đời lao tâm mệt óc, lo bao đồng thì còn gì là hạnh phúc. Sao không nhớ; việc đâu còn đó, con người ta chỉ chết có một lần. Có bề gì, tôi cũng leo máy bay hay chuyển qua chuyến tàu khác, theo kịp hai anh, rồi cũng gặp nhau, chớ tôi có bỏ hai anh đâu mà hòng sợ!".
Nghĩ cho hai anh nầy tốt phúc, sinh và sống trên đất Tự Do từ nhỏ đến bạc đầu, nhờ vậy mà tánh tình cởi mở vui đời. Tủi cho mình sanh đất ba đào xoay chuyển, từ bé cha mẹ muốn đánh không nói duyên cớ, rầy oan rồi cũng bỏ chìm xuồng, lớn lên ông ở trên, lịnh ra bất nhứt, tha giết không chừng đổi, thằng đi trước lãnh được tiền, thằng đi sau bị đuổi về, vì không có Tự Do từ lâu đời, nên tánh hai sợ lảng, dái thường thót trên cổ. Ấy đó, kể về tánh tình ba đứa tôi vẫn khác nhau, Đông là Đông, Tây vẫn là Tây, thế mà khi ráp nhau làm bộ ba, lại rất Pháp Việt đề huề “, buổi phiếm du ở Nhật vắn vỏi như buổi chiêm bao toàn hường, nay nhắc lại đây tiếc tiếc sao đã chia tay nhau quá sớm.
Từ phi trường, xe taxi Nhật chạy hèn lâu mới tới Đông Kinh (Tokyo) Pezeu chọn sẵn cho tôi trú tại Hilltop Hôtel. Vừa đặt lưng nằm một chút kế Merken đến, kéo nhau xuống quán tầng dưới, ngồi uống khai vị Martel-Perrier, vừa rẻ vừa ngon, vì đã lâu ngày vắng rượu. Bữa cơm vừa rồi, Pezeu đã đến, đưa hai chúng tôi về nhà chào ra mắt Pezeu phu nhân. Lần đầu tôi gặp một hoa anh đào biết nói. Thằng Pezeu khéo lựa: Lúc ở Sài Gòn Pezeu có thương một nữ sinh Việt. Cha mẹ không khứng gả; Pezeu tuy có cảm tình nhiều với nước tôi, Pezeu đành ôm mối tương tư qua đổi lấy cô nầy. Sinh viên đại học tân tiến, nói trôi chảy tiếng Pháp, mắt thu lóng lánh, người hơi cao dong dảy, sánh với lai giống tiên rồng e vượt lướt bề lực cũng như bề cao, nhưng ráp với dòng gô-loa thì quả xứng đôi vừa lứa, Pezeu phu nhân mỏng mảnh như cành liễu đang độ hơ hớ thanh xuân, thêm hai hàm răng hàm tiếu trong trắng như ngọc giũa sấp đều đều trong đôi môi đỏ không cần son, duyên dáng. Đêm hôm nay, Pezeu mời chúng tôi chào đêm đầu trên nước Nhật, và để thêm danh dự cho bạn Việt là tôi, phu nhân vận bộ quốc phục đại lễ, trông xinh như mỹ nhân trong tranh vẽ. Khi ba đứa đàn ông chúng tôi thả bách bộ trên hè phốp vì phong tục vợ không sánh đôi cặp kè ngoài đường với chồng, vì một lẽ khác gái Nhật có chồng ngoại kiều, ra đường đi chung, traỉ Nhật thường xí xô xí xao phê bình, nên không phải cố ý phu nhân lóc cóc chạy theo vừa kịp ba thằng lực lưỡng bước những bước ông chằng ông kẹ quên phứt có người đàn bà yếu đuối theo sau gót, tội nghiệp phu nhân, tiếng guốc gỗ nện thật nhanh trên nền đá nghe cốc cốc vui vui và chiếc áo dài quốc phục bó gối, khi bê bên nầy, khi đảo bên kia, uốn nắn theo vóc mình liễu mướt thảo nào thằng giáo sư đa tình là Pezeu có địa vị cao, bô trai bô gột (beau gosse), đã quên mất các cô mắt đục bờ sông Seine, cũng quên luôn tiểu thơ xứ Huế, đã chết mê chết mệt vì tiếng sét ái tình của cô Phù Tang thơ mộng nầy, hai đứa đụng nhau nghe cái rộp, thành vợ thành chồng, và đến ngày nay nghe đâu Pezeu đã vào quốc tịch của phu nhân, vì tục người đảo Mặt Trời, có vợ người nước ngoài thì ép theo đúng như gái bản xứ, và có chồng xứ lạ, trước sau cũng phải chọn Nhựt tịch mới được trọng đãi đồng hàng.
Hôm ấy Pezeu có nhã ý mời Merken và tôi cùng đi với vợ chồng Pezeu đến thưởng thức một bữa tiệc đặc biệt “tép chiên rán trong chảo mỡ sôi", món ăn nầy do một ngự thiện của Nhật hoàng, nay xuất cung lập nhà hàng chiêu khách.
Nhà nầy nay ở vào nơi nào cũng không nhớ rõ, duy nhớ muốn đến đó phải năm ngăn bảy nấp, len lỏi quanh co rất xa trong xóm hẻo lánh, hai bên đường lót toàn đá lớn miếng và leo dốc ngoằn ngoèo, có rào trúc xinh xinh lá giao nhành đòng đưa, mỗi nhà đều có một tiểu hoa viên trước ngõ, có mạch nước chảy ro rẻ, có giếng đá róc rách cách nhau xa xa mỗi tiếng mỗi khác kiểu nhưng luôn luôn nhà nào có giếng đều kèm bên một cái gáo bằng tre đơn sơ, có tra cán rất dài, không biết đây là cảnh Thiên Thai, nếu không phải thì ắt cũng là xóm các trà sư nối dõi nghề "trà đạo” huyền bí và thanh cao có tiếng. Trước mỗi nhà có hàng rào tre xinh xắn, cột dây mây luôn luôn thay mới, không cần hàng rào sắt thô kệch, và mỗi nhà có cách riêng thắt dây rất mỹ thuật nên dùng chữ "nghệ thuật", tưởng đúng hơn. Merken và tôi, đến đây phải coi chừng, gìn giữ lời ăn tiếng nói, kẻo hơi tục làm bẩn chốn thần tiên uổng lắm. Bất chợt, nhớ lại mấy câu hát xưa;
"Giỏ lá vai mang nhe nhẹ.
Đường ba chơn bước khoan khoan, (đường hoa...)
Hơi, gió đưa người trở lại Cam đàng (Cam đường)
Mây theo gió, trông chừng Hồ động”
Hát nam;
"Hồ động phăn phăn lối cũ~
Như là: Việc nhãn tiền tán tụ chòm mây.
Bớ kỳ nhi? Ngộ làm ri tê!
La phù giấc ngủ hây hây, (La phù lanh cũ hay hay)
Gió khêu bóng nguyệt mùi gây hương sầu (Bóng tiêu thu nguyệt,
mùi gây xuân sầu)
Ủa nầy! Thuyền đâu trăng nước đâu đâu
Màu lam thoát đã vẽ sầu thần tiên (... rẽ cầu Tịch dương)
Không biết tác giả có đến chốn nầy chăng, mà tả cảnh nghe như hệt. Người hát câu nầy, nay đã là bạn trăm năm, ăn ở với nhau đã bạc hai cái đầu, học mãi hát không nên một câu khỏi gãy.
Âu là "chỉnh y quan...", mới hát nho nhỏ đến đó, cũng vừa bước đến cổng, một người thiếu phụ chực sẵn, vừa thấy chúng tôi, nàng khúm núm cúi chào, chúng tôi đáp lễ, chưa kịp chi đã thấy nàng vái móp, đầu cúi gần sát đất. Chúng tôi vừa vào tới sân bên trong, có bốn cô gái tóc còn chừa bánh bèo ra quỳ rước, tay nâng từng chiếc giày mở dây, và trao ngay chân voi chân tượng mỗi người một đôi thảo hài hoa, vừa nhẹ vừa lâng lâng, đủ làm cho tôi có cảm giác gần như thoát tục. Rượu khai vị uống từ ban nãy, bây giờ hơi rượu đã bay đâu mất, tôi hoàn hồn nhớ lại lúc nào ở nhà vẫn quen tiết kiệm đi vớ rách, đôi giày hả miệng, nếu hôm nay trên đất lạ, làm vị khách Việt viễn du mà giữ thói quen xài đôi bít tất có cửa sổ, thì còn gì thể diện mặt mày. Cũng may sao là biết thân nên đề phòng trước, chớ không thì đã lòi cái cùi cẳng (cẳng cùi) xấu hổ.
 Chân bước đến phòng tiệc thì dội lại. Duy có một cái bàn duy nhứt, mà đã có khách choán rồi. Chúng tôi được đưa sang phòng trà ngồi đợi. Chúng tôi gọi rượu, trả lời rượu không có vì đây là phòng trà. Vậy xin khách hãy tạm dùng trà để đợi đến phiên. Tôi đã chếnh choáng hơi men, nói giọng hơi cao, không ai nói gì, nhưng ngờ ngợ vì mắt chị Pezeu như tha thứ. Khổ một nỗi đôi giày đã bị lột, không quen ngồi chém bẹp "u mê trên chiếu, thêm bộ âu phục bó sát mà an toạ thế nầy, cái mông sát sàn gỗ, cái bụng tuy chưa phải trứng gà thuộc địa (oeuf colonial), nhưng cũng thấy thốn thốn đến khó thở, nó tăn tăn tức tức lấy làm khó chịu. Còn trời ơi! Cặp giò già đãy (chim marabout) kềnh càng không biết thu xếp vào đâu cho gọn, nếu nhét nó dưới chiếc bàn lùn e nó làm sập hay ngã bàn, bằng thu nó, xếp vào dưới bụng, ngồi theo kiểu tham thiền, thì khốn nạn thay, cái quần bó sát cứng đơ, vẫn đòi bung cặp giò tới trước. Đương cơn bực bội ngã lòng, cũng khiến bên kia khách vừa mãn tiệc, hiện bà chủ gia sang phòng mình, đang quỳ móp thỉnh vợ chồng Pezeu, lão M. và tôi qua bên ấy dùng món ngự thiện kẻo bỏ qua dịp tốt. Đây là món Pezeu khen lấy khen để, bào chuốt còn hơn Sơn Đông bán thuốc dán, rằng xưa đặt trên bàn Nhựt hoàng, nay bình dân hoá hiến cho khách ngoại bang như bốn đứa tôi mặc tình thưởng thức. Nó cực văn minh ngon không chỗ chê, thanh không thể tả, lạ hết cỡ, đồ Tây đầy tô còn thua nhiều nhiều. Cái phòng tiệc trông đà lạ mắt, khoảng giữa rộng mênh mông, vỏn vẹn mới vào chỉ thấy một đại lực sĩ đang quỳ dưới đất, cái bụng to bằng cái trống chầu đưa tới trước, y vận đài phục bạch y bạch mạo, xem trắng lốp như cục bột, đầu thì trọc lóc trọc lơ.
 Trước mặt y là một cái chảo mỡ đang sôi sục sục, chảo đen mun vì dùng lâu đời, khói củi khói mỡ đóng dày nhưng rất sạch, chảo lớn lạ thường to cỡ cái bồ lúa bên ta thứ nhốt tràm giạ, chung quanh chảo, chừa chỗ lão quỳ, ba bề kia có một cái bàn bằng gỗ hẹp lùn, bọc gọn tròn theo kiểu móng ngựa, vành trong cái móng ôm sát cái chảo, vành ngoài có thả chiếu hoa tròn làm chỗ khách ngồi, như những bồ đoàn của pháp sư tham thiền. Bốn đứa tôi, Pezeu, Pezeu phu nhân, Merken và tôi, ngồi xếp bằng, vây giáp vòng cái bàn lùn ấy, đâu mặt với lão đại lực sĩ đang quỳ gối trước chảo mỡ sôi hực. Mỗi đạo sĩ cưỡng bách là chúng tôi, an toạ trên bồ đoàn là manh chiếu tròn êm mịn, chỉ êm cho bàn toạ nhưng làm khổ cho cái bụng gần ngày của tôi to như cái trống, khổ nhứt là cặp giò seo, đến đất Nhựt vào chỗ nầy, trở nên kềnh càng, và lúc ngồi thưởng thức món ăn lạ nầy, không biết cất giấu vào đâu cho khỏi cản trở. Nhớ năm trước từng gặp một chiến binh Mỹ mất cặp giò, nếu anh xin về an dưỡng nước Nhựt thì hay biết mấy. An toạ vừa xong, thì có mấy cô thiếu nữ má trái đào, ra quỳ dọn đĩa chén và đũa. Nói đến đôi đũa bình dân Nhựt, của các quán cơm công cộng, phải chấm một dấu son phục cái tài chế biến của người tự xưng là tân tiến nhứt trong giống da vàng. Đũa tre, đũa mun, đũa quán phở, nhứt là đũa ngà không dám cho gặp nước, đều thua xa hai chiếc đũa gỗ thông thô sơ của Nhựt, rẻ tiền là gọn vô cùng. Đũa do cái máy cưa nào đó cắt ra nguyên lố, muôn thiên vạn ức, không cần bào chuốt chi cho tốn kém, cứ đế máy cưa cưa đồng một cỡ, duy giữ kỹ lằn cưa không cho đứt rời, làm sao cũng giữ đầu trên hai chiếc đũa còn một thẻo gỗ dính lại, phòng khi quan khách cần dùng thì chỉ tách rời ra làm đôi là gắp món ăn được ngay, và khi nào dùng bữa cơm xong, cứ quăng đũa đi là hết chuyện, khỏi rửa khỏi phơi khỏi cất, sau nầy có khách mới dọn tiệc mới thì lấy đũa cũng mới, chiếu lệ đũa còn dính cặp là đũa chưa dùng, đũa nào tách rời là đũa xài rồi, đã hạp vệ sinh thêm giản tiện, khen ai sáng chế loại đũa rẻ tiền tránh được lây bịnh và gớm chờm. Duy cái bàn lùn kiểu móng ngựa của nhà nầy, người nào nghĩ ra nó, không biết có kỳ thị dân bụng phệ và dân nước ngoài không quen ngồi xếp bằng hay chăng, hay đây chỉ là óc giàu tưởng tượng của một tên già ưa suy nghĩ lếu. Một điều nên công nhận, là với cái bàn móng ngựa nầy, khách tối đa là tám người, kiểu bát tiên là cùng, chớ không lẽ ngồi giáp vòng và ngồi sau lưng lão chiên tép thì sao ra lễ?
 Cũng may hôm ấy chúng tôi chỉ có bốn người, nên khỏi lo ngôi thứ. Tuy vậy vẫn theo lễ, tôi được ngồi bên hữu của phu nhân, chỗ danh dự nhờ cao niên, còn Merken thì ngồi bên hữu của Pezeu là đúng phép lịch sự. Đã không trái phong tục Đông Tây, vừa gọn thêm vừa khéo. Chủ và khách bái chào vừa xong, thì lão lực sĩ đầu bếp bắt đầu thi tài khéo léo. Lão sử dụng hai chiếc đũa tre thật dài, mới tinh và trắng toát, tưởng chừng lão sẽ gắp đầu bốn người ngồi trước mặt cho vào chảo, nhưng không, lão ngó chúng tôi gật đầu cười, rồi nhón kẹp bốn con tép bạc, mỏng như lá lúa nhỏ bằng ngón tay út, lão thả bốn con tép bé tí teo ấy vào chảo mỡ khổng lồ, lão lật qua lập lại vài lần là bốn con tép vàng lườm đến đỏ tươi. Thế rồi lão dùng đũa dài gắp từ con ra, con thứ nhứt lão đặt vào đĩa ngay mặt tôi vì ngồi chỗ danh dự, con thứ nhì lão dâng cho phu nhân, con thứ ba dâng cho Merken, con thứ tư cho Pezeu là chủ bữa tiệc được dâng sau rốt, rồi lão bắt qua chiên lớp tép khác. Con tép bé tý teo ấy, vừa đặt xong vào lòng đĩa trắng, thì lẹ như chớp tôi đã thủ tiêu mất xác, mặc dầu tép đang nóng hổi vì vừa gấp từ trong chảo mỡ sôi lấy ra. Trời thì lạnh buốt, con tép lại quá nhỏ, nên sức nóng không đủ làm phỏng môi lưỡi, vị chi tép vào miệng lỏng lẻo, như cọp ăn bù mắt, làm sao phỉ sức những bợm láu ăn như thằng hạm nầy. Giá thử “thực tại gia” thì ít nữa mỗi lần tôi lùm ba bốn con một lượt mới là phỉ tình.
 
Thế mà nay phải ăn cầm thực, mỗi lần một con tép bạc làm vầy, trời đất ôi, chịu sao thấu? Để an ủi, tôi đánh trốc một hớp rượu sa kê "nhấp tận bôi" (campei) và gắp kèm một miếng gừng chua cho vào mồm, vừa đưa cay chén rượu, vừa đỡ cơn đói, vừa chờ lão lực sĩ ngự thiện bố thí cho mình con tép khác. Bạn chúng tôi với tư cách là chủ tiệc, hỏi Merken và tôi: "Chỗ tép chiên điệu hoàng gia Nhựt, món ngự thiện nầy, có vừa miệng chăng?”. Tôi không trả lời, vì Merken đã văng ra một tiếng thề, muốn hiểu sao cũng được Merken!
 Rượu sa kê không nồng nhưng rất dễ say. Tôi gật gù, bắt chuyện vần quay xay lúa, rằng bên nước Việt: "nam thực như hổ, nữ thực như miêu". Nhưng đến đây xứ của samourai (hiệp sĩ, võ sĩ) và anh hùng kami-kaze (cảm tử quân), đành nhập gia tuỳ tục, và đỡ dạ bằng con tép bạc chiên trong chảo lớn. Tôi không nói dối, tôi nói tiếp, thú lắm và ngon lắm. Không thú không ngon sao được, vì như tôi đây, sau một ngày hành trình vất vả đổ đường ngàn dặm, hay từ Đài Bắc sang đây, đường xa thiên lý, trong dạ dày từ sáng sớm chưa có một hột cơm lót bụng, (bữa trưa ăn bánh mì), nay trọn bữa tiệc, tưởng được dằn đầy bao tử mau lấy sức, nhưng không, đất nầy là đất triết lý, đất nầy là đất “cần kiệm lề gia chi bản”, chín con tép cũng đã là nhiều?. Để đánh lừa cơn đói, tôi phải "thồn" bất cứ bao nhiêu đồ bổi bày trước mặt; gừng non xắt mỏng ngâm trong giấm chua, dưa leo cũng ngâm giấm, dưa chuột cũng ngâm giấm, rồi nào củ hành Tây, nào cọng hành Tàu, nào ớt đỏ lớn trái nhưng lấy hột ra sạch, thảy đều ngâm giấm, giấm son giấm thanh giấm chua, thảy đều là giấm. Tôi trở lại gắp gừng chua, dưa chua, hành chua, ớt chua, tuần tự thồn đồ chua, để chờ con tép mằn mặn chén rượu sa kê lạt lạt rượu gì còn thua nước cơm rượu xứ mình!
 
Thế mà tôi đã say và no tự hồi nào, tôi không hay?
 
Tôi để ý trọn bữa tiệc, Pezeu phu nhân không ngớt rót rượu đãi khách thay cho chồng không quên trâm tiếng Nhựt hối lấy thêm đồ gia vị, nào lấy thêm rượu, nào thêm gừng chua, vừa phục vụ đức lang quân một cách chu đáo, vừa lo lắng cho khách không để thiết sót vật gì, thật là cung cung kính kính, gái tân thời mà được vậy không hổ chút nào với câu xưa: "ngang mày Mạnh thị khôn nâng chén".
 
Tôi lại để ý phu nhân có nhiều cử chỉ rất đẹp, con tép đặt vào đĩa, phu nhân gắp rất khéo, có nhai nó không và nhai nó tự hồi nào, duy thấy tép mất tức đã bị ăn, một điều khác nữa là người phụ nữ Nhựt không bao giờ tự rót rượu vào chén mình, và rượu của đàn bà uống phải do đức ông chồng ban cấp.
 
Mãn tiệc, trời đã khuya. Vả lại tiền nong đã trả xong và có lẽ trả hậu lắm nên lão lực sĩ đứng dậy, nơ cái bụng trống chầu ra tiễn khách. Tại sân và trước cổng, đủ vợ đủ chồng luôn cả gia nô binh tướng đều quỳ gối cúi đầu tống tiễn. Tuy bụng còn đói, nhưng tôi rất vừa lòng, nội cái cử chỉ dân Phù tang cúc cung khấu đầu lễ bái, nổi cái cách thấy họ khép nép lúm khúm trước mặt mình, cũng đủ hả hê khoái sảng. Ai dám nói "lạy là nhục", và giữa Việt và Nhựt, người xứ Mặt Trời đâu phải là dân hèn?
Về đến khách sạn, nằm trên nệm ấm, đồng hồ đã gõ mười hai tiếng, mới nhớ hôm nay trọn ngày vất vả, chỉ nuốt có chín con tép long bong, thế mà thấy khỏe nhiều, phải chăng chẳng cần ăn thật no, miễn dùng thức ăn thật giàu sinh tố, gừng chua bên mình xem rẻ, qua xứ người mới biết.
 
Gẫm lại nước Nhựt, nằm trên vô số cù lao giữa biển, quả là một nước ăn cần ở kiệm, lấy con tép con cá làm gốc, làm món ăn căn bản. Nước, đất không rộng, mấy ngàn hải đảo không đủ cỏ mọc cho thú nhà ăn, bốn bề sóng bủa giăng, chỉ có cá là dễ kiếm và dư dả tha hồ, cho nên từ vua đến quan từ tướng tá đến dân đen lam lũ, đều dùng cá rau làm thức ăn để sống. Tiết kiệm vi tiên. Trọn bảy ngày trên đất hoa anh đào, tôi ăn cơm bữa nào cũng thấy cá và đậu hủ kho chung với cá, cá chiên, cá nướng, cá gỏi, cá sống, vân vân...
 
Nghĩ cho mình, từng nếm trên đất Nhựt, miếng thịt bò nướng rượu cồn, thì đây cũng là một cách bít tết Châteaubriand chế cho khỏi nói ăn cắp kiểu. Miếng thịt mềm lắm, nhưng quả là món ăn của người phương Bắc có đồng cỏ rộng lớn nuôi được bò nhiều, qua đất Nhựt đây là món xa xỉ phẩm dành cho người tư bản. Tôi cũng từng ăn cá sống cặp với rau thơm, nhưng thú thật, tôi chưa biết ăn và cũng chưa dám ăn như người Nhựt là món cá biển để sống, thái nguyên thẻo dài dài như thịt xá xíu, sau khi thái xong, họ lấy vải sạch vuốt cho khô máu, rồi họ cầm thẻo cá sống họ cắn ăn ngon lành, xem còn ngon hơn trẻ nút cà rèm cây, hoặc như mấy chị thèm chua nhai xoài sống.
Buổi chợ đông, con cá hồng, anh chê lạt.
Tan chợ rồi, con tép bạc, anh khen ngon.
 Câu hát nguyên là câu hát cũ của dân Việt, khen ai khéo đặt, giá thử đem qua hát cho dân Nhựt nghe, thì là ăn khớp nhứt! Ăn cá rất bổ, mau tiêu hoá, ít ốm đau và đỡ tốn tiền. Hèn chi người nước họ, bắp thịt cứng, gân guốc. Trước kia họ lùn, nhưng nay người họ cao lớn cân xứng. Nghe như họ không bao giờ xa xỉ. Tỷ như anh lính tay trơn, tỷ lệ mỗi bữa ăn là một con cá mèn. Lên chức cai chức đội, thì có quyền ăn hai con cá, nhưng đến một con số nào đó thì dừng lại, chớ không lý cứ cái đà nhứt biến tam, nhì biến tứ, rồi lên đến tướng, ăn nguyên một biển cá lận sao?
 
Trông người rồi gẫm đến ta, nước mình tại sao huỷ hoại và xa xỉ quá?
 Vô cớ phá diệt, không tiếc của chung. Cứ xem nội cái mẻ cá kho của người nghèo. Cá trứng đầy bụng, cá chưa kịp đẻ, xúc về kho đầy một đĩa cá rồng rồng. Ngon thật, nhưng nếu đếm thử, mỗi nhà nghèo đều làm như vậy, vô tình đã sát sanh bao nhiêu cá. Kẻ đến sau còn có gì ăn? Trên mâm nhà giàu, muốn được khoái khẩu, ăn cá cháy trứng, ăn mắm trứng cá, ăn cá mùa đẻ mập béo, v.v.., huỷ hoại biết bao nhiêu thực phẩm đủ nuôi cả làng cả nước. Nhưng tội chưa nặng bằng dùng lựu đạn quăng xuống nước, ăn một con mà giết từ trứng mèn, tiệt cá trọn một khúc sông hồ.
 
- Thứ năm 19-9-1963 (ngày thứ 9 trên đường Đông du, thứ nhứt ở Tokyo)
- Hôm qua 18 Tây, buổi sáng còn ở Đài Bắc, buổi cơm tôi ăn chín con tép ở Đông Kinh, xưa kia Tiên Phật muốn được như mình, phải trai giới kinh kệ cực khổ lắm, còn nay có ba đồng tiền mua tiên cũng được, nói chi việc ngồi máy bay dễ ợt. Nhưng được đàng nầy, thua đàng kia, hồi đời Tiên Phật hoá phép thần thông, nghe nói khi lầm lỗi bị đoạ thì Tiên Phật xuống trần lại có dịp ngã mặn và biết đàn bà, sướng quá. Thuở trước chưa có dấu vết văn minh thế kỷ hai mươi; nhẹ thì học tập, nặng thì cải tạo. Sau bữa cơm chín con tép, bắt tay giã bạn, về tới phòng trọ là 12 giờ khuya, rượu sa kê uống ít say nhiều, nằm trằn trọc, bắt suy nghĩ viển vông, trót hẹn với Pezeu, dặn 10 giờ sáng hãy đến, nên sáng nầy tôi ngủ nướng! Cái số cực, mãn đời vẫn cực. Ai kia quen ngủ nán ngủ thêm, tôi thì có tật tối trốn khách vô chuồng còn sớm hơn gà, để năm giờ sáng thức dậy lau chùi đồ cổ, không biết còn mấy năm nữa và làm mọi cho ai; tại số cực. Nhớ bạn cũ là bác sĩ Trần Vạn Kim, lúc hai đứa tôi hàn vi, tá túc ăn cơm tháng nhà anh hai Bùi Văn Khá đường Hàng Dừa (Lacote cũ), bảy giờ sáng đã gõ, anh Kim còn dật dựa trên ghế bố, chờ cho chủ nhà nhảy xuống giường thì bác sĩ ta nhảy lên thế, hưởng thêm ít phút trên nệm ấm. Nhưng sau đó chủ nhà mua một con chó lai cho Nhựt đem về tập, hễ chủ bỏ giường trống thì nó choán, để tránh gồi dính nước miếng ke. Hai anh đều bỏ đi chầu trời, tôi ở lại, từ ấy bỏ biệt thú ấp chăn ấp nệm ngủ nướng. Faire la grasse matinee, phải dịch làm sáo cho ổn và bắt suy nghĩ phải chăng ngủ thêm vào giấc sáng, mỡ trong châu thân tụ tập lại làm cho con người mập thêm, nên mới có câu thành ngữ oái ăm như vậy. À, ở đất Nhựt, tiếng là nằm giường, nhưng giường đâu chẳng thấy. Nệm trắng tinh, giải ngay trên sàn gỗ, sao gọi rằng giường? Mình có tánh sợ nhứt khi ngủ chỗ lạ, là ngủ trong mùng có mùi dầu dừa xức tóc cả tháng không tắm. Ngủ đất Nhựt không có nạn ấy, vì ngủ trần, màn cũng không mà mùng cũng "nơ ba ". Ở Pháp, ở Đài Loan, cũng không dùng màn. Cũng như tôi khen xứ Pháp không có muỗi và không có trộm. Thầy cũ, ông Bourotte cãi; tại mấy chưa vô xa, nên chưa thấy, và tại cái máy nhiếp ảnh của mầy, chúng chê bán không có giá nên chừa.
Kìa Pezeu đã đến.
Mét với Pezeu rằng lúc nãy, gọi cà phê đen, bơ và bánh mì; Khi dọn, bánh thêm có nhân mứt. Pezeu cười mà rằng; nên tha thứ! ở Sài Gòn thợ sắp chữ không làm theo lời dặn. Qua bên nầy, nói ngọt nó không làm, nói nặng nó càng bỏ bê hư việc. Bây giờ tiếc thợ Việt thì đã muộn màng. Không nên trách vì ngôn ngữ bất đồng, chẳng qua vì đời tiến bộ và mình theo không kịp.
Mảng lo nói chuyện, xe taxi tới viện bảo tàng, cũng vừa mở cửa. Viện ở đây, cách trình bày khéo lắm. Tỷ dụ một gian phòng rộng thinh thang tròm trèm phòng Khơ me ở bên ta, viện ta bày trên trăm món, ở đây tôi đếm tám ngự bào Thanh đế (Trung Hoa), tám bức đại tự bút tích các vua Mãn trị vì đất Hoa (Khang Hy, Kiền Long), và tám món sứ cổ thật quý, đúng là quý tại tinh bất quý tại đa. Nhưng đặc biệt là tủ kính bên nầy rộng như căn phòng, vì gác dan di lòn trong ấy được để lấy tranh ra khi xảy ra hoả hoạn. Nhưng khen nữa là khen phò mã tốt áo, cũng bằng thừa.
Khi 12 giờ gõ, Pezeu từ giã về nhà vì một chút việc cần.. Tôi leo lên taxi, đưa cho bác tài xem một cái hộp quẹt diêm có đề địa chỉ khách lầu Hilltop - Hôtel, tôi không cần biết tiếng Nhựt mà khỏi lộn nhà, đây là một sáng kiến tốt bên ta nên bắt chước, giúp khách ngoại bang dễ tìm đường, và hộp quẹt quảng cáo cũng không tốn mấy.
Về đến phòng thì Merken đợi tôi sẵn, hai đứa kéo xuống tầng dưới dùng bữa trưa qua loa rồi gọi taxi đưa ra ga, lên tàu hoả đi Kamakura. Ông Phật ở đây bằng đồng, cao mười ba thước, ngồi tham thiền giữa trời, theo sách chỉ nam, đã trên bảy trăm năm. Nhìn nét mặt thấy Phật tha thứ, không như lúc nãy đi ngang một chùa xưa thờ thần hổ, xứ lạnh không nhang, dân Nhựt đã mất tự tin, hổ lấy gì no? Xem thêm một viện bảo tàng lập trong một điện cũ của một vị tướng quân thời phong kiến (shogun). Xem xong ra đón xe buýt đưa tới ga mua vé về Đông Kinh, tính tiền xài chung là 1.500 yên, phần tôi là 750 yên, trao lại Merken, thế là sòng phẳng. Tối nay, 8 giờ rưỡi, đi dùng cơm. Bữa nay ăn cá thu sống, thịt đỏ lòm, nhưng cũng lạ miệng và cá không tanh. Đĩa thứ nhì, và chót, là cơm trạng ăn với lươn nướng rút xương. Tôi uống sa kê, hai anh kia uống bia, cơm rồi kéo nhau về Hilltop uống trà tán dóc đến 11 giờ 30, Pezeu và Merken mới chịu ra về.
Vendteali 20-9-1963
(ngày thứ 10 trên đường Đông du, thứ hai tại Đông Kinh).
Sáng thức sớm dọn dẹp cho sẵn để mai lên đường đi viếng cựu đô Kyoto. Điểm tâm xong, ra phòng khách chờ 9 giờ rưỡi, Pezeu đến, cùng nhau lên taxi đi đến phòng của Merken, rồi bộ ba đi viếng khắp các nơi có bán cổ ngoạn do thổ công ở đây là Pezeu dắt đường. Đến hơn 12 giờ, lựa mua được một tranh người mặt đỏ thủ siêu đao, định chắc đó là đức Quan đế do thợ Nhựt hoạ; giá 4.500 yên, có trao thêm hai cục sành đỏ và nặng, mới biết vật ấy dùng treo dưới tranh cho gió đừng bay. Thấy bốn viên ngọc rất vừa ý, hỏi giá 25.000 yên, trả lại, vì không đủ tiền.
Đến 15 giờ (ba giờ chiều) mới ăn cơm. Phòng là một nơi hẹp té, có nước chảy róc rách dưới chưn, đây là mạch suối có từ khi có động đất ở vùng nầy. Người Nhựt là dân hiếu kỳ, cảnh thiên tạo họ không tu bổ, để y vậy, chỉ bắc một cây cầu con con qua rãnh nứt, rải thêm một lớp đá cuội thay vì gạch hoa, là đủ hốt tiền. Ghế bàn thô sơ cho đúng với cảnh thạch thất bị động đất, nói thô sơ chớ kỳ thật là nghiên cứu chu đáo; gỗ để nguyên không sơn không thoa vẹc ni nhưng bóng sẵn và có vân rất đẹp. Kiểu thức thì ở xa ba cây số cũng nhìn biệt là made in Japan. Buổi tối đi ăn cơm xoàng, uống khai vị ngon, rồi kéo lại nhà ông De Berval trước ở Sài Gòn làm chủ bút tờ tạp san chữ Tây "Pháp - Á-tế-á" (France - Asie) mình từng cộng tác. Đến đây ông li dị được với chị phù dung nhưng tóc pha sương thêm nhiều. 12 giờ khuya bắt tay từ giã, để mai thức sớm đi Kyoto.


- Thứ Bảy 21-9-1963 (ngày thứ 11 trên đường Đông du, thứ ba tại Nhựt).
Tôi đã nói số tôi cực vì tật lo việc không đáng lo, hạnh phúc kề bên mà không chịu ôm, để nay đã già thì đã muộn. Đêm nay ngủ không thẳng giấc, vì mệt mỏi cũng có, vì lo sáng phải thức cho kịp trước 6 giờ rưỡi để kịp đi Kyoto cũng có, lúc ở nhà de Berval ra về, ngồi viết ký ức kẻo quên, hai ba thứ rượu uống trong ngày bây giờ hành, muốn những việc cấm, mơ màng nhớ hoa anh đào thứ bằng xương bằng thịt, vừa ba giờ đã thức, sợ cái đồng hồ quả quít quên vặn lò so, bốn giờ thức nữa, và 5 giờ rưỡi là ngồi dậy, đi toa-lết, thay đồ, dọn hành lý một lần chót, lựa cái gì cần dùng cho vào tay xách đem theo, gởi lại Hilltop một va ly xộn xên, một mớ sách, y phục giày guốc. Trời còn sớm quá, chưa sáu giờ sáng. 6 giờ 15 phút có Merken đến, và đúng 6 giờ rưỡi thì "thản nhiên vô sự tiên sinh" là Pezeu đến. Tưởng nên gọi va là ông thần "Hạnh Phúc" mới phải. Đồng hồ ra ga, lên xe... 7 giờ xe chạy, 7 giờ 30 điểm tâm trên xe, 11 giờ 40 ăn cơm trên tàu. 14 giờ đúng, xe tới Kyoto. Liền khi ấy, mướn được phòng và chia nhau ra ở; Pezeu và Merken là hai thanh niên sồn sồn, nên chia nhau ở chung một phòng lớn; còn lại tôi, tụi nó ngáng phải ở riêng một phòng nhỏ, được tự do hơn, nhưng phòng không chỗ rửa tay, không chỗ tiểu tiện, nhưng tôi không than phiền, vì có điện thoại đủ gọi cô phụ nữ Nhật tẩm quách, và suốt mấy ngày ở đây, cứ về giờ ngơi, tôi “khai trương” bộ y phục vải trắng má bù trẻ may tặng trước khi Đông du, và mỗi đêm Pezeu mỗi cười trên đất Nhựt thấy ông già Việt. Ba đứa tôi hối hả bỏ hành lý lại phòng để đi xem bốn chỗ; hoa viên cổ tự Ryoanji (le Jardin du Temple Ryoanji), chỉ trơ trọi có năm hòn đá dị hình ở giữa một biển đá cuội tượng trưng cho trầm luân khổ ải, biển đá nầy mỗi ngày mỗi cào đá cho luôn luôn thấy sóng dợn, và nhờ chúng tôi ở nán xem đạo sĩ cào đá, mới rõ đá không dấu cllơn người, vì đạo sĩ sắp hàng ngang dùng bồ cào cào đá và vì họ đi ngược, bồ cào theo sau nên không có dấu chân. Nước Nhựt là nước tôn trọng đạo Thiền (Zen), người Nhựt rất giàu tưởng tượng, năm cục đá nầy họ xem trọng không thua bức tranh la Joconde hay một danh lam cổ tích Tây phương nào khác. Đây là họ nhiễm thú chơi cổ thạch kỳ bi của Trung Hoa mà danh sĩ Tô Đông Pha là người dẫn đầu. Không kể tích “Mễ Phí bái thạch”.
Cựu đô Kyoto, sùng thịnh từ năm 794 đến năm 1868. Chùa Phật, am thiền, điện xưa của các lãnh chúa, ngự hoa viên, trong một ngày vội vã, chúng tôi đều có bước chân đến viếng, duy tiếc nhứt là chúng tôi không được cung chiêm cựu hoàng cung, vì muốn viếng chốn thiêng liêng nầy phải xin phép trước và có giấy phép mới vào cửa được, thiệt là một điều đại ân hận nhứt là cho tôi, đến chết không có dịp trở lại đây nữa. Các nơi danh thắng khác chúng tôi đã viếng là:
b) Le sanctuaire de Heian, tôi dịch là Bình an giáo đường. Xây cất năm 1895, như vậy thì chưa cổ lắm, nhưng đặc biệt là trong vườn trồng toàn một giống anh đào, lúc chúng tôi đến là lúc hoa đang trỗ rực. Các toà nhà và lầu các nơi đây đều toàn bằng gỗ sơn một màu son đỏ và đã lạc tinh, tôi chỉ cho Pezeu và Merken lớp laque rạn đủ kiểu chân muỗi, vảy cá, da cá nhám, v.v.., và lấy làm lạ vì sao trẻ nít Nhựt đến đây không làm trầy một chút xíu những lớp sơn nầy, không phải như ở Huế, đá Thanh Hoá ở Ngọ Môn mang đầy vết đạn bắn, vết khắc tên đôi tình nhân hoặc khắc những câu tục tĩu của mấy anh lính Sài Gòn ra thú ở đó mấy năm tao loạn, thậm chí con rùa đội bia chùa Thiên Mụ cũng bị đục nơi đầu, một câu chữ quốc ngữ ghi ngày tháng và tên họ của một thằng và một con Thị Mẹt vô giáo dục đã đến đây làm chuyện không tốt khiến cho đá mang tủi nhục đời đời như vậy.
c) Les Temples de Higashi ét Nishì Honganji, (Đông Tây Bổn an tự) là hai toà kiến trúc thuần Nhựt Bản, thờ Thần đạo;
d) Le Pavillon d argent, ngân điện tên gọi Ginkakuji (Ngân các tự) trước cửa một đốc quân lãnh chúa. Nơi đây thấy đủ bao trùm cảnh Kyoto cổ kính; khiến nhớ câu: "lâng lâng chẳng bợn chút trần ai", và bất giác buồn buồn vì không mấy ngày nữa phải trở về cõi tục.
e) Le Pavillon d or, xin cho tôi dịch "Kim phụng điện” vì rõ ràng có hình dáng chim phụng thếp vàng trên chót vót vách cao. Theo sách chỉ nam, điện nầy bị cháy và tu bổ lại từ năm 1955 gần đây và trước kia cũng của một tướng quân shogun, thống lãnh một vùng.
f) Sanjusangendo, chùa thờ Phật của thế kỷ 18 còn lại, làu làu nguyên vẹn, nhờ người Nhựt biết sùng bái báo tàng và giàu tánh hiếu cổ.
g) Le château de Nijo, là một lầu các kiên cố như một thành trì, tên gọi lấy theo tên ông chúa cũ Nijo. Cũng vậy, nơi đây có một sân gác cao, đứng đó nhìn được cảnh thần tiên Kyoto (Kinh đô) dưới mắt.
h) Chùa Dai sen (Đại Thiền) tôi muốn dịch Đại Tiên quá. Nơi đây tôi mua được một chén trà bằng đất nung, giá 150 yên, và một tập giấy bản Nhựt, có đóng dấu đỏ kỷ niệm ngày để dấu chân chốn nầy.
i) Chùa Daitokeyi, tôi dịch chùa Đại tổ? Cũng đá cũng hình sư tổ nhốt trong động nhỏ, và chỗ nào như chỗ nấy, huyền bí và khó hiểu, đi xem hối hả như chúng tôi, nhờ đều là tay si mê cổ tích và có chút vốn bảo tồn mới tạm tạm nhớ và biết được, thưởng thức được đôi chút.
Hai thằng trai Pháp chúng nó phá tôi hôm ấy, báo hại chạy theo chúng muốn rã cặp giò. Thi đua như vậy còn chưa phỉ sức, đến chiều chúng tôi bỏ bữa cơm, mua gấp rút mỗi đứa hai cái bánh dồn thịt kiểu bánh sanwich, thi đua mua vé chun vô kịp rạp hát Musi hall, ngồi nhai bánh xem không nháy mắt, cảnh gái Nhựt thoát y vũ. Rạp nầy rộng khá, nhưng chật nứt khách ham chuyện xác thịt, và dòm đi dòm lại trong rạp còn nhiều lão già trời đánh chớ không phải duy có riêng một lão Nguỵ Vương già nầy! Sân khấu là một cái móng ngựa bằng gỗ thật dài, từ trong buồng lú ra chạy vòng đến nửa phần rạp và mọc sát mặt khán giả. Hát ở đây là hát bẹt-ma-năng, ai giỏi kiếm chỗ, chờ người nào xem mỏi ra về thì xê xít lần lần, xít thét bộ ba chúng tôi đều lên được khít sân khấu, các cô vũ nữ, lột lần áo.., sú-cheng.., quăng tưới xuống đầu cổ khán giả, một cô dạn hơn hết trong đám khi đi ngang Merken, ngồi khòm xuống sân khấu, lấy chân ếch khều má Pezeu và vừa cười mím chi vừa rót một chén sa kề đưa tận môi Nguỵ Vương, tôi nuốt cạn bôi và muốn cắn luôn ngón tay út của cô, nữ độc giả nào đọc đến đây xin tha thứ vì tôi đâu phải là thánh! 11 giờ khuya mới ra về, Pezeu dắt đi ăn cơm, tôi nuốt không vô, vì đã ngán món cá kho tào hủ Nhựt. 12 giờ khuya mới về tới phòng.


- Chủ Nhựt, 22-9-1963 (ngày thứ 12 trên đường Đông du, bữa thứ 4 tại Nhựt).
Sáng uể oải đến 7 giờ mới thức, vì thi đua hôm qua nay thấm mệt. 8 giờ rưởi thay y phục qua phòng Pezeu và Merken đưa nhau đi dùng điểm tâm, rồi đến ga mua vé xe lửa đi Nara, độ một giờ sau là xe tới chỗ.
Nara là cựu kinh đô nước Nhựt trong thế kỷ thứ VIII. Buổi cực thịnh, nơi đây là thành Trường An của mỹ thuật và văn chương. Dấu vết xưa còn lại tuy dấu xưa xe ngựa đã biến theo hồn thu thảo, nhưng ngõ cũ lâu dài, đi đến đâu thấy ràng ràng. Chúng tôi có dự kiến một cảnh moi đấl tìm ra chưn cột nền đá và dấu tích đô thành xưa Nara, nhưng chúng tôi đành rời ra đi, vì chúng tôi không có thì giờ khảo cổ. Chúng tôi đến:
1) Le parc de Nara (Nại lương) công viên. Nơi đây, có mấy chục con “mai hoa lộc” rất dạn, lại cọ sát tay du khách để xin, khi hột đậu phộng khi miếng kẹo gói trong giấy, khi một miếng đường cục. Giống nai nầy nhỏ con quá, và tiên đời xưa ắt cũng nhỏ con thôi, nên mới ngồi trên lưng mai hoa lộc được. Hoặc vì nhậm toàn hoa quả cho nên thân mình nhẹ?
2) Le Sanctuaire de Kasuga, lâu các toàn sơn màu đỏ, trên nóc có treo nhiều lục lạc đồng, gió thổi khua vui tai, và nhiều đèn cũng bằng đồng và rất xưa.
3) Le Temple de Horyuji, là một "đại ẩn am" xưa và theo sách chỉ nam, cổ nhứt trên thế giới, kể về kiến trúc bằng gỗ. Đây là một kho tàng vô giá về đồ cổ đồ xưa của nước Nhựt. Tôi đứng ngắm mà bùi ngùi nhớ cung điện Huế của đất nước ông bà chúng.
4) Sau rốt, chúng tôi dừng chân lại nơi "le Temple de Todaiji (Đông đại tự) là một kiểng chùa Phật nhưng sao trong chỉ nam lại viết "temple"? Phật bà nơi đây là hình Phật đứng, thân bằng đồng, ngón tay của bà bề ngang bằng bề ngang vóc hình tôi, tuy tôi không phải là oải tử. Phật bà đo mười sáu thước Tây bề cao, đầu gần đụng nóc chùa, đúc từ đời Đường (618-907). Nghệ thuật đúc tượng đồng thời đó đã điêu luyện tới bực nầy, nhưng sách không nói do thợ Nhựt hay thầy Tàu chế tạo. Tượng ông Thánh đồng đen của Hà Nội không đem so sánh được. Sự tín ngưỡng đời trước đã giúp cho nghệ thuật thành công một cách thiêng liêng, quá sức tưởng tượng.
Những cột gỗ chùa nầy đều lựa toàn bằng cây thông già, mỗi cây cột ba người choàng tay ôm không giáp, cao nghều nghêu, cao lối hai chục thước, như vậy Phật bà mới khỏi đụng đầu. Có ruột gốc cột trước bàn Phật, nơi sát nền, có một lỗ trống, bên nầy thấu qua bên kia cột. Mấy ông sãi chun lòn vào cột thì bớt được nợ trần. Bộ ba chúng tôi đứng xem phụ nữ Nhựt chun, khi ấy tôi khám phá ra mấy thằng sãi chùa là đồ mắc dịch, vì khi chun như vậy cái đầu chưa ra được bên kia còn bên nầy, cái gì cũng đòi "lù coi" là hẳn. Đi tu mà không trót, bày cảnh tục tĩu. Vì sao đã mấy thế kỷ rồi mà không dẹp bỏ cảnh xấu xa nhơ mắt nầy? Pezeu và Merken nghe tôi càu nhàu, kéo tôi ra khỏi chùa, tôi tiếp xem lần chót, mấy cây cột gỗ thông, vì già đời quá, nên mòn lớp thịt mềm và lòi ra mớ sớ gân đỏ lòm, thịt thông trắng sậm, lòng thục đức tin đến đây cũng muốn tu.
Tối nay được ăn cơm đãi, Pezeu thết một tình nhân cũ, chúng tôi khỏi trả tiền. Đã thấy mê tín trong chùa, thêm thấy vắng vợ, đàn ông ở đâu cũng hư như nhau. Tôi bèn cho hư luôn, và đêm nay nhắn thơ ký khách sạn gọi cho một thiếu nữ tẩm quách cho khá đẹp, giây lát một cô “đấm bóp” choàng áo blouse như nữ bác sĩ: tay xách túi da đựng đồ nghề, đến làm phận sự. Muốn đấm lưng và vai tả, cô ngồi mé hữu và lật sấp tôi, mặt day bên chỗ không có cô ngồi. Đấm rồi cô trở bộ, qua bên kia, day tôi trớ mặt cũng ngó qua chỗ không có cô ngồi. Cho đến nay xin ai đừng hỏi nhiều, và thú thật tôi có hứng thú tẩm quách nhưng vẫn không biết đàn bà Nhựt!


- Thứ hai 23-9-1963 (ngày thứ mười ba trên đường Đông du, bữa thứ năm trên đất Nhựt).
Sáng nầy 6 giờ thức, 8 giờ rưỡi xuống lầu ăn điểm tâm, 9 giờ đi nhà băng đổi 80 đô la lãnh 28.900 Yen, nhà băng còn tặng một hộp quẹt khổng lồ một ngàn cây diêm làm quảng cáo, tôi giao cho giáo sư Pezeu và trả 10.000 yen làm tiễn đưa trước cho sự chi phí chung mấy ngày du lịch. Chúng tôi đến sở cho giấy phép viếng hoàng cung (le palais impérial), nhưng họ trả lời phải xin trước ba ngày mới có trả lời. Từ giã nơi đây, chúng tôi xem lại toà ngân điện (Le pavillon d argent), rồi xem qua thuỷ tâm viện.
Đến 12 giờ, ghé quán nếm mì Nhựt Bản, không khác nào ăn cơm nếp mắc mưa, nó dở như hạch, nhưng vào quán lỡ rồi, miễn no và không nên khó tánh. Muốn khó hãy đợi về nhà. 13 giờ rưỡi, ba đứa tôi y hẹn, đến nhờ một thiếu phụ Nhựt quen với Pezeu đưa đến một am thanh, xem diễn “trà đạo”. Vì có nhiều sách tả rồi, tôi nay không tả lại.
Buổi chiều tái diễn ăn sandwich để kịp mua vé xem geisha, vũ nữ và ca kỹ Nhựt trình diễn nghệ thuật.
9 giờ rưỡi về phòng sớm, định diễn lấy mình. Đòi cho được cô đấm bóp hôm qua, nhưng cũng bổn cũ soạn lại, cô đứng đắn quá, cô ra dấu khứa khứa cái cổ, hiểu rằng anh kia ghen lắm. Thôi! Đấm bóp rồi về đi. Tôi ngủ!


- Thứ ba 24-9-1963 (ngày thứ 14 trên đường Đông du, bữa thứ 6 trên đất Nhựt)
Sáng nầy dậy sớm ra ga mua vé, lên xe cùng đi với Pezeu và Merken, xe đến Yokoyama, xuống sang qua xe buýt chạy về làng Imbé là một làng nhỏ vô danh đối với khách du lịch khác, nhưng tối quan trọng đối với tôi, vì đây là làng chuyên làm đồ đất nung, theo phương pháp cổ truyền học được do thợ gốm đời Tống truyền nghề lại. 11 giờ xe buýt tới Imbé, đặc biệt xe buýt xứ Nhựt hoàn toàn dưới quyền cô bán vé ra lịnh, bác tài tuân theo răm rấp, trở đầu xe cũng do cô bán vé xuống đứng huýt còi ra dấu, xem oải quá, và vé xe có thứ tự, chỗ ngồi có số hẳn hoi, không có cảnh ép cá mòi, ngửi nách hôi, lên xe sợ rận đeo xuống e sợ chí nhảy qua tóc như bên mình. Imbé có một con đường duy nhứt, thẳng như ruột ngựa, hai bên là phố bán và phía sau phố là lò làm đồ gốm của mỗi gia đình chủ từ căn phố nhỏ. Tôi đã tả đầy đủ trong tập khảo về đồ gốm của bộ Hiệu cổ đặc san, nơi đây xin cho tôi lược bỏ phần chuyên môn, để nói riêng về vấn đề ăn và uống không mà thôi. Nhưng cũng phải cho tôi nói, vì tôi là giống già hàm, tôi nói tại sao nước ta không lấy làng Nhựt nhỏ nầy làm gương. Một con đường non một cây số (1.000 thước chiều dài), hai bên phố làm gốm mà không có cạnh tranh giành giựt mối hàng, vì mỗi nhà chỉ bán gốm riêng biệt, anh thì bán đĩa, tôi ở kế bên anh nhưng tôi chỉ bán chén, muốn mua tô phải tìm căn phố chuyên sản xuất tô, và người khách nào không muốn viếng riêng từng nhà, thì cứ việc vào căn “hợp tác xã" ở mỗi hai đầu phố, nơi đây có bày đủ thứ hàng (đĩa chén tô, lục bình, v.v...) của mỗi nhà kia và bất cứ ở đâu đều một giá nhứt định không lên không xuống. Như vậy cho nên tôi thấy mỗi chủ gia đều trầm tĩnh, kẻ xem báo, người biên chép sổ sách, khách hàng đến họ nghinh tiếp tử tế nhưng không lăng xăng líu quít như chủ nhà thổ những đêm cuối tháng. Cứ thỉnh thoảng cách năm ba căn phố, chúng tôi xin chủ nhà biểu diễn nghệ thuật, họ không bao giờ từ nan, lễ phép đưa chúng tôi ra sau nhà, chỗ có trại làm đồ gốm, rồi họ nhồi đất nắn nặn món gốm nào mình muốn xem họ làm, dưới tay họ, cục đất sét chạy vo vo trên bàn, biến ra hình cái vò, cái chậu, cái bình, mau như chớp mắt, xem mãn nhãn rồi, khi hết muốn xem, họ thôi biểu diễn và họ không quên đập quặp món đồ trước khi đưa khách ra về. Lò của họ đều nhỏ thôi, nhưng đặc biệt, lò nầy chụm củi gỗ thông, nóng bao nhiêu độ, lò kia chụm gỗ trực, gỗ danh mộc tuỳ theo sức nóng họ muốn có để hầm món đồ. Đó là nghệ thuật đời Tống, lưu truyền lại, không cần máy đo sức lửa, và vì vậy nên có danh từ chuyên môn "thần nhân", "ngọc nhãn", "thanh nhãn", thay cho thermomètre, compteur v.v.., "hoả biến" (món đồ đổi màu vì lửa, Pháp gọi "accident de four", v.v.
Trưa chúng tôi xức cơm với tàu hủ kho chung với cá đuối (nuốt vào nó muốn nhơn ra vì lanh quá, nhưng hai thằng mũi lò nuốt được thì tên Nguỵ Vương già cũng rán nuốt theo, cũng may kỳ nầy nó vô luôn. Vì ăn cơm lường mỗi bữa cơm ăn bốn chén nên chuyến nầy tôi hơn hai bạn tôi, chỉ chuyên phá mồi, ăn đồ ăn nhiều hơn cơm, và vì cá tanh quá, nên tôi không giành. Buổi tôi chúng tôi ních sandwich tại ga, để lời thì giờ, vì trọn ngày, chúng tôi thả rong từ lò nầy qua lò nọ, gần quên hết thời gian tính. Merken trầm trồ khen mãi, rằng đem qua Paris thì nghề riêng ăn đứt mấy ông nghệ sĩ trời âu, chỉ có danh, tính tiền thật mắc, nhưng kể về nghệ thuật thì thợ gốm Nhựt, nay đã hết lùn vì lai nhiều, hơn xa! Merken mua khá nhiều đồ. Pezeu lựa được ba món rất có duyên. Duy có tôi, ngu và hư hơn tất cả, ban đầu tuyên bố rằng nhứt định không mua, nhưng khi lên xe hoả trở về thì đếm món của tôi nhiều hơn cả.
Lò số 1 - Mua một cái nậm rượu grès, chủ lò tặng một nhạo nứt đít bỏ ngoài sân, tôi cố nài, chủ lò đổ nước nước không chảy, chủ lò biếu không tính tiền, tôi chỉ cho xem lằn nứt hình cong chữ S là chữ hoa tên tôi, ba người kia, chủ lò, Pezeu và Merken, đều chưng hửng. Nhạo nầy vẫn còn. Nậm 1.000 Yen.
- Lò số2 - Lựa mua một bộ đồ trà, đếm năm chén quân (mua dư đề phòng bể), một ấm, một chén tống cả thảy hình thù méo mớ, đựng trong một hộp gỗ, 2.000 Yen.
Lò số 3 - Nơi đây ban đầu lựa mua một ngỗng (nhạo dài cổ), sau chủ lò đem ra bốn cái khác, tôi đều mua cả. Đây là loại gốm chế tạo sau trận dội bom ở Hiroshima, Pháp gọi piè ces scatologiques, hình dáng giống cục phân (cứt), người chế ra đầu tiên là một anh thợ may tỷ phú Nhựt, chọn nghề tài tử (violon d Ingres) và thỉnh thoảng nghỉ may ngồi nắn ấm chén, cho vào lò và chuyên sản xuất loại hình cục phân. Và nói đĩa tròn, bình tròn, con nít và đàn bà đều làm được, vì đặt lên bàn quây là nó tròn. Duy đồ scatologique là đồ thiên tạo đồ “hoả biến”, làm không khi nào giống nhau nên quý. Bộ đồ trà nói trên, cũng thuộc loại nầy, cả thảy ngụ ý sự tích chiếc giày Hoàng Thạch Công, nhờ Trương Lương không gớm, lượm giày ba phen mà sau làm thầy Hán Cao Tổ và học được nghề tiên. Nếu đừng gớm thì ở lại nhậu trong chiếc bình xấu xí nầy, nhược bằng phạm tục sợ dơ thì hãy để ta yên. Bình còn ngụ ý ngầm nước Nhựt vì trái bom nguyên tử mà hư hại như cục phân, cục cứt. Anh thợ may tỷ phú bày ra làm gốm xấu xí để rủa những ai bày ra nạn chiến tranh và bom dữ giết người, tôi có dư tiền vẫn mua gốm ấy để chiều sở thích. Anh chủ lò nể, nên tính năm món 700 Yen.
- Lò số 4 và chót - Lựa mua một "ngọc hành" làm bằng đất chưa nung, còn phơi nấng ngoài sân. Hỏi mua chủ lò không ưng bán vì chưa nung, cố nài mãi, chủ lò định giá 500 Yen và căn dặn phải “nướng” kịp trước hạn kỳ, không thì hỏng. Đây không phải vật tục tĩu đúng ra là cái cúp (chén) dùng cúng lễ của đạo kín, tôi mua vì tánh cầu kỳ, mà cũng xuýt mất chức vì chén nầy, vì khi tới sân bay Tân Sơn Nhứt, có người khám hành lý, tôi đã hỡi ôi, may sao giờ phút chót khỏi bị xét, vì có người quen đến kíp giải nguy. Nếu không có cứu tinh, cái dương vật bằng đất lòi ra, thì chức quản thủ viện bảo tàng, thứ quản thủ ăn lương công nhựt, đã bay mất từ lâu, thêm xấu hổ biết bao nhiêu.
Có lẽ món ấy, đúng là xúi quảy. Merken từ giã chia tay, mai nầy và còn du lịch thêm mấy ngày trên đất Phù tang nên va ở lại. Pezeu và tôi trễ chuyến xe trực chỉ về Kyoto, phải đi xe chuyến từ 8 giờ cho đến 11 giờ, thì xe hoả nghỉ chạy phải tạm mướn phòng nghỉ một đêm nửa đường. Nằm chung một phòng với Pezeu, va lấy tiểu thuyết ra đọc tỉnh bơ, còn tôi trằn trọc, phí 3.300 Yen tiền phòng và 2.500 Yen chi tiêu lặt vặt mới về tới nơi, thiệt là lãng phí. Trong hai người, ai là có hạnh phúc, tôi xin nhường cho độc giả đoán giùm.


- Thứ tư 25-9-1963 (ngày thứ 15 trên đường Đông du, bữa thứ bảy trên đất Nhựt)
Cũng là ngày chót trên đất Phù tang - Tuy mệt mỏi, nhưng ở Kyoto được cái may là có nước nóng pha ấm ấm để tắm, buổi tối 11 giờ đêm tôi tắm rồi mới đi nghỉ, sáng lại 6 giờ tôi tắm nước nóng nữa, cho nên người thấy khỏe khoắn. Không phải tôi gượng, kỳ thật tôi vui vì chẳng mai thì mốt, mình cũng có mặt ở Sài Gòn. Vì chiều ý Pezeu nên 8 giờ sáng hai tôi mới thức, trả liền phòng rồi ra xe luôn, ăn điểm tâm sáng và dùng cơm trưa trên xe. Xe Nhựt không thua xe Âu châu, chạy đúng giờ khắc, thêm có trà uống khỏi tiền. 14 giờ 30, xe tới Tokyo, ghé tạt Hilltop Hơtel, để hành lý, mướn phòng số 303 xong rồi lên tai đưa Pezeu về nhà và cho xe chạy luôn lại De Berval. Ở lóng nhóng tại đó cho lới 4 giờ 30, nhưng đêm nay không có hát Nô (hát Nhựt theo lối tối cổ, cũng hò hét như hát bội ta). Bụng muốn đơn thân đi xem thoát y vũ cho đã thèm, nhưng trót hẹn lo với Pezeu ăn cơm tiễn hành tám giờ nầy nên đành bỏ chuyện muốn hư.
Chờ vợ chồng Pezeu cho đến 20 giờ 40 vợ chồng y mới lại. Vì trời mưa tầm tã nhắm đi đâu cũng bất tiện, tính gọn ăn tại Hilltop-Hôtel cho giản tiện, không ngờ tổ trác một vố khá nặng, mình đòi ăn Châteaubriand, tiệc rồi toa ghi 7.634 Yen, không đủ tiền, phải xin Pezeu 2.000 yên mới đủ trả. Vì còn để dành 1.400 Yen, ngày mai trả taxi ra sân bay.


- Thứ năm 26-9-1963 (ngày thứ 16 trên đường Đông du, bữa chót, ngày hồi hương...)
Sáng 6 giờ thức dậy, tắm nước nóng rồi trở lại nệm nằm chờ... 8 giờ thay y phục, mang hành lý xuống lầu, chị bồi phòng một hai giành xách va ly tồng tềnh, mình một phen nịnh đần, chị châm một hơi tiếng Nhựt, mình nào hiểu ất giáp gì, chị ta xuống lầu, trả tiền lì xì, chị xem hơi giận, anh thơ ký cất nghĩa tiền súp-lê-măng đã có kể trong hoá đơn. Thiệt khó làm cho vừa lòng mỏi chỗ; bên Pháp mỗi mỗi phải có pourboire, bên Nhựt trả lì xì, họ cho rằng nhục.
Đến 8 giờ 55 có ông Pezeu đến tiễn lên đường. Pezeu phu nhân xin miễn lễ vì trời còn sớm quá, không dậy nổi. Pezeu đứng bên xe bắt tay giã biệt lần chót, dặn taxi đưa mình đến phi trường Tokyo, xuống xe trả 800 Yen. Ban đầu bợ ngợ vì dốt tiếng Nhựt và không biết một tiếng Anh. Cứu tinh hiện ra nữa là một ông Mỹ thạo tiếng Pháp, làm thông ngôn hộ, nên giấy tờ dễ dàng qua khỏi cửa phi trường vô phòng khách ngồi chờ giờ cất cánh. Rờ trong túi còn 600 Yen Nhựt, bèn mua bốn gói Camel hút phì phà đỡ buồn miệng. Lên máy bay Air France, chiếc Château de Compiègne, lớn khổng lồ, loại JET hoàn cầu biết tiếng. Phỗng lỗ mũi hồi nào không hay!
11 giờ 15 cất cánh, đến Hương Cảng là 15 giờ 30 thật là nhấp nháy. Móc ví ngăn kín tiền má bù trẻ giấu, mua miễn thuế một transitor 10 NATIONAL hai bandes, giá 39,50 U.S, dollars. Ngồi ăn chung bữa cơm chót dọn trong phòng sang trọng và rộng lớn, người khách kia là Đại tướng Lê Văn Tỵ, ông đi Mỹ trị bịnh nay trở về. Đại uý Bùi Công Minh tuỳ viên quân sự, đứng hầu. Ăn cơm uống toàn sâm banh. Đại tướng không uống được. Một mình uống, sướng quá, té ra về cách chẳng bao lâu bị tướng Khánh cho ra rìa.
Viết theo notes cũ, ngày 20-6-1978


     

Bài Kết Luận


Hơn nửa đời hư, tôi viết không có plan, vì plan ở trong đầu.
Cũng không có giáp, vì tôi có lật, viết giáp, ưa sửa, không khi nào bằng lòng câu mình viết ra, và phải viết bằng máy đánh chữ, sợ tốn sợ hao, cho nên câu nào đánh máy lỡ, tạm tạm ưng ưag, miễn nghe được hiểu được thì được rồi, tôi nào có ý định làm văn? Thú thật, giáp ở trong đầu. Đã sống một đời dài, nay thuật lại, thì chỉ cần có hồ sơ sắp đặt trước theo thứ tự, rồi ngồi vào máy gõ lóc cóc cho đỡ sầu, mặc cho nó tuôn... Cũng có lúc gò lại cho nó dễ nghe, thì khi ấy cũng cần có giáp, nhưng như đã nói, viết kẹt cánh gà, viết trên tiệm hút từ lúc nhỏ, nay giấy má còn, đẽo gọi sửa lại sơ sơ là được rồi. Vì vậy, tôi rất quý trọng hồ sơ xếp có ngăn nắp và rất sợ xét nhà. Xin cô bác thương tình. Có nhiều đoạn, lại là câu chuyện kể rồi trong Bách Khoa thời đại, Tin Sớm, Chọn lọc nó đã cũ xì, thì tôi o lại cho mới mới đôi chút, vậy thôi. Hơn nửa đời hư, thai nghén từ những năm thi rớt, những năm vợ bỏ, tôi lại hiểu lầm thi chưa đậu là tại văn mình kém, nên hoá ra chua chát. Âu cũng là một "thiên bạc mệnh", nếu có "não nhân" thì cũng là ngoài ý muốn.
Kết luận nầy tạm, vì còn chờ đậy nắp quan, nó mới là thiệt thọ. Chừng ấy ai đọc điếu văn sẽ viết dùm.
Có bạn, thương, hỏi tôi sao không viết luôn đến năm nay 1978?
Xin thưa, một vì buồn chán, hai vì từ ngày hết nợ, thôi làm mọi nhà nước, tôi tưởng, hết lên voi xuống chó, ngày nào như ngày nấy, chờ cơm, đưa võng, viết ai mà hòng coi. Nên không viết và tốp nơi năm Mậu Thân 1968. Tốp năm 1968, tạm gọi “Hơn nửa đời hư" thì được. Viết nữa, “Hư trọn đời” hay sao? Đọc hết tập “Hơn nửa đời hư” nầy, các bạn sẽ thấy đời của tôi, bé mọn mặc dầu, cũng có lúc quay tít như con vụ ó.
Ai từng chơi vụ ó, mới hiểu câu nầy, tôi muốn nói gì.
Lựa cho mình được một nhánh duỗi khá trộng, cắt một khúc, đẽo con vụ ó. Phải gỗ duối mới được. Gỗ khác, nhẹ thì vụ mau nứt mau hư, gỗ nặng thì cứng khó làm, vụ quay chậm, kêu nhỏ. Thân nó lớn bằng trái măng cụt. Phải dày công khoét một lỗ tròn nơi bông vụ, cỡ đầu ngón tay út, rồi lòn đồ nghề theo miệng lỗ, móc ruột cho khá khá, ruột bộng càng lớn chứa gió nhiều vụ kêu càng to Xong rồi tra dưới chưn vụ một khúc đinh sắt chột cỡ tám ly, đóng lút một đầu đinh vô con vụ, phải khéo tay lấy dùi sắt xoi lỗ trước rồi mới tra đinh vào thật vững chắc, coi chừng từ chút, đóng quá sâu phạm tới ruột thì công phu lỡ làng. Xong con vụ rồi để đó, lo đánh bằng tim đèn, một sợi dây dài cỡ một thước ngoài, dây nhợ cũng tạm được nhưng chơi không bền, sẵn dây sẵn vụ còn phái bọc quấn dây, ngoèo một đầu vào thân vụ rồi vấn dây chung quanh nó, không biết ngoèo thì dây vướng, vấn lỏng thì dây tuột, vấn quá chặt thì vụ vấp, trục trặc; học được thành nghề quấn vụ rồi còn học cách phóng con vụ cho thật mạnh, thật đều tay gần y như thợ chải thả lưới, đâu đó thuần thục rồi tay mặt nấm một đầu dây, dang không cánh tay vụt một cái thật khoan thai, con vụ bỗng nhiên tuôn tròn thoát khỏi sợi dây, nhảy xuống đất quay tít mù. Khi ấy hơi gió lọt vào lỗ gây ra một luồng không khí mạnh, phát ra một tiếng "O" đổi lần nghe “Ó”, rồi vụ đứng một chỗ cứ tuần tự kêu "O! O" thật là khoái nhĩ! Biết đánh thì vụ kêu ngon lành, không biết đánh, thì vụ văng vào ống nhổ thì bị đòn to. Gặp cục sạn thì vụ mất thăng bằng, gặp lỗ sâu thì sụp, gặp chỗ lồi thì đảo, phải sân gạch thật sạch, thật láng bóng như nền nhà cũ của Ba tôi thuở trước, thì vụ mới quay êm và phát ra tiếng "Ó" êm ái, đến khó tánh như Ba tôi cũng phải chịu.
Ôi! Biết đời nào mới trả lại thú chơi vụ ó!
Và tôi đã tiêu đầu lạc ngạch, cháy đầu bể trán, vì số tôi là số con vụ ó!
Không cho tôi làm vụ ó thì có lẽ kiếp trước của tôi là kiếp trâu. Con trâu về già không cày nổi nữa, gọi trâu lao canh, chủ cho ra rìa, không đưa ra lò sát sanh, đã là tốt phước Trâu vô tích sự, đứng trên bờ mẫu ăn cỏ xanh lại còn ăn lén lúa vàng, bỗng bầy chuột tai hại xoi ngạch khoét lỗ, bờ mẫu Diệm đổ, trâu đứng ngu ngơ, tiếc không còn gì để cụng để mài sừng.
"Trong bụng lem nhem ba lá sách,
Ngoài cằm lém đem một chòm râu.
Thơ là thơ cổ tả con trâu, nhưng giá thử ngày sau tạc bìa để mộ chí cho lão Vương già, lão nằm dưới đó, cũng không cằn nhằn, vì đúng là chân dung lão.
Bốn vách hư, gọi tứ đổ tường, tôi đều có va đầu vào, nhưng may sao chưa bể;
Tửu, nay không còn whisky chánh hiệu ăng-lê nên không uống nữa. Cũng như không tìm đâu ra chuốt số 79, nên bỏ thú ngậm điếu cối. Chớ trước kia, vốn là con sâu rượu, nhưng uống đủ hai công-xom-ma-ti-ông, thì ngừng; tuy chừa thuốc hút, nhưng để dành ống điếu làm sưu tập phẩm.
Sắc, đã bị họ cạo đầu khô không biết mấy lần, chỉ được một cái là từ ngày biết, xét mình vô tài cán, tự rút lui không cho cạo nữa.
Tài cũng đánh chơi ít ván, khi nào ngộ trận có mỹ nhân. Thín cẩu biết thua; bài con chim, biết chung tiền. Qua môn tứ sắc, họ mời cũng chịu miệng vậy, ba tay hội đủ còn chờ mình, nhưng năm đồng một lên, là năm đồng xu chớ không phải năm đồng bạc (năm 1960, đã là lớn), các cô chê đánh như vậy đau lưng, nên đãi cháo gà rồi tha cho về.
Khí, là khai đăng, nằm nói chuyện với chị Phù Dung. Nói oan cho chị, tôi làm nhân tình với chị đã nhiều năm, nhưng vì trót hứa cùng Ba tôi, mà không giữ vẹn lời hứa, như vậy mới hư, tôi kéo hai điếu là chạy tét, chị làm sao bất tôi ghiền được. Năm khi mười hoạ, vài tháng sau, tôi lại kéo hai điếu nữa. Nhân tình như tôi không khăng khít cũng không lơ là. Như vậy mà bền. Bây giờ tôi còn giữ tật tắm sớm và tắm khi đi chơi đêm về. Đó là để phi tang tôi đã nằm với chị. Tôi có câu nầy làm căn bản;
"Nhớ ai như nhớ ả phiên,
Thuốc ngon hai điếu, muốn ghiền còn lâu .
Chị làm sao bắt tôi được!
Trong đời của tôi, hễ cái gì tạm bợ thì được, thì bền; đi thi để kiếm cơm độ nhựt thì được, làm quản thủ "lại ăn lương công nhựt thì bền; ngót mười bảy năm ở viện bảo tàng chớ phải chơi, từ 1947 đến 1964. Thi lên ngạch cao, có đồng lương khá, thì bảy lần rớt đủ bảy; không học được thi phép đức thánh Trần. Cưới vợ làm hôn thú, thất công linh, tốn tiền cha mẹ không ít, hao nước mắt thầm không kể. Chín tháng ly dị người đầu. Mười chín năm cùng người nhì đồng hè xin ly dị. Giận quyết trả thù hết thảy đàn bà. Đụng người thứ ba, không lập hôn thú nữa. Hai người kia làm khổ cho mình mà mình chớ hề dám động, nay họ vẫn sống phê phê trong nhung lụa. Người thứ ba, đã khóc với mình bao nhiêu nước mắt. Tại mình muốn làm đau làm khổ trở lại cho đàn bà phen nầy phải chịu; có vay có trả. Xét ra, không nên nói chuyện trả thù với đàn bà, không lý tiểu tâm như họ. Năm ôi, anh là con chim bị đạn, không muốn nhập bầy. Em cũng nên xét mà bỏ qua cho anh. Đừng làm khổ nhau nữa, hãy quên đi cho nó bớt. Đời của tôi, cái gì cũng cũ xì, vá víu, tạm bợ; chằm có, vá có, khíu cũng có: nhà, mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, ở đến nay, ấy là chằm. Vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp, ai ai cũng biết. Vá víu đó chớ gì? Còn về sách và đồ cổ, gẫm lại hoá tức cười; khíu bìa sách, vá đĩa xưa. Một khi nói, phải cho tôi nói hết. Đồ cổ xem lại, hết sức chung tình với tôi. Gặp cái nào biết là giả, tôi có quyền đập bỏ. Một lần đập một lần học khôn. Mua tháng nầy một cái đĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười hoạ, gặp mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ; dầm, bàn, tông, tột. Dầm; đĩa nhỏ; bàn; đĩa lớn; tống; chén lớn để dầm trà, lốt hay quân; chén để uống là, duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu, đó anh Lộc Đình. Chầy ngày chầy tháng đồ cổ đồ xưa tụ tập đầy nhà. Từ một nhà lương thiện, sợ ở tù như đàn bà sợ mắc thằng Bố, bỗng hoá ra nhà oa trứ số dách, từ Nam chí Bắc ai cũng biết danh. Cũng may, cho đến nay, không ai làm khó dễ. Thật tình mà nói, vật cổ lâu năm, làm sao có hoá đơn. Có nhiều món, xưa từ đời ông Nhạc ỉa cứt su, hỏi giấy tờ là kiếm chuyện. Cho đến nay, đồ cổ vẫn xem là vật lưu động, như tờ giấy bạc không khác. Trừ phi bạc cấp của gian, chớ thuở nay có lệ đồ cổ về tay ai thì người ấy làm chủ. Pháp có câu "Possession vaut titre" (Vật về ai, nấy làm chủ) - đến lượt sách, chuyến nầy tôi giận thiệt. Những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng nhượng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng "liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ cho phép để “trong nhà", xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thôi thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.
Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp cùm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quý, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gả chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm nhiều tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ.
Để tạm kết luận, số của tôi là số, vợ không hôn thú, sách trữ là sách gian mua từ chợ trời, và đồ cổ đồ xưa của tôi chơi là đồ oa trữ giậu. Và tôi chỉ biết làm tội cho cha mẹ. Bây giờ nhớ lại hồi tâm thương ông nhạc gia ở Lịch Trà. Tội nghiệp vì ông làm hương hào có phận sự rao án toà và án ly dị với vợ đầu tiên, có khi nào cha rao án con bị người ta xé hôn thú mà cha vui lòng. Con đã làm khổ, một ngày cũng nghĩa, xin Ba thứ lỗi, ngày nay Ba đã mất, con chỉ xin lỗi nới mấy trang nầy.
Câu văn của tôi cũng vá víu, nhưng mình khái tệ mình không hay, tôi xin nhường độc giả phê phán lấy. Cặp trạng bài cổ thi con trâu", tôi mượn để tả chân dung của tôi cũng như hai câu thơ cổ nầy, nói về cây vông tôi cũng mượn nốt để hỏi lấy tôi;
Uổng sanh trong thế mấy thu đông,
Cao lớn làm chi vông hỡi vông"
Ấy tâm sự và sở trường của tôi: tôi cũng không giấu. Tôi là thằng giỏi mượn.
Nếu hỏi về thuật trường sinh, tại sao sống dai, thì đây là mấy câu góp sách cũ, đã in trong tập "Chuyện cười cổ nhân", chương 19, nay chép lại;
Chuyện Ký Viên dạy rằng; có ba ông cố lão gặp nhau truyền rằng;
- Ông thứ nhất "Thật nội cơ thô xú" (trong nhà vợ thô xấu);
- Ông thứ hai "Vãn phạn giảm sổ khẩu" (cơm chiều bới và miếng);
- Ông thứ ba "Dạ ngoã bất phúc thú" (đêm nằm không úp đầu). Ông Ký Viên nối ba câu lại mà rằng: "Chỉ tai tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cứu". (Ý chỉ thay lời ba già, chỗ do sống lâu xa).
Chính tại người đời nay chụp giựt và đọc quá mau, chớ đọc kỹ sẽ thấy muốn hưởng tuổi xa, chỉ cần tiết ẩm thực, diệt sắc dục, là hai lời khuyên nầy rất hợp với lời Tiền Kiên ca rằng;
"Thượng sĩ dị phòng" (Ké thượng sĩ riêng phòng
"Trung sĩ dị bị" (Ké trung sĩ riêng mền)
"Phục dược bách loã" (Uống thuốc trăm viên)
"Bất như độc ngoạ” (Chẳng bằng nằm riêng).
Tối nằm không úp mặt, và tối nằm riêng phòng, bí quyết trường sinh là đó.
Tôi có một tật lớn là muốn việc gì thì muốn lấy được, tỉ dụ như thi huyện, một vài lần rớt thì thôi, nhưng tôi lại cố thi mãi và muốn đậu rồi sẽ bỏ. Ngờ đâu số tiền định, phải cho tôi tin có số mạng, nếu tôi thi đỗ thì ngày nay rất khác, tôi đâu có được như vầy, nhưng lúc đó tôi đang trong giấc mê đồ, trong ý muốn đậu cho vợ mình không chê, chỉ có vậy thôi, mà mất biết bao nhiêu năm. Ở các chương trên, tôi còn nhắc lại tích Diệp Sinh trong Liêu trai (bản dịch Nguyễn Khắc Hiếu, Tân Dân Hà Nội xuất bản, trang 62). Diệp Sinh, nửa đời luân lạc, thi mãi không đậu, sau vâng lời một ông quan đỡ đầu, theo ông nầy về dinh, kềm dạy cho con ông ấy thi đậu và thành tài, khi ấy Diệp Sinh cũng đậu cùng một khoa với học trò mình, và nhơn đi phó nhậm, con ông quan đưa Diệp Sinh trở về cố trang thì vợ Diệp Sinh khóc lạy rằng vì nghèo nên quan cữu của chồng chưa chôn, nay xin hồn ma đừng về khuấy phá. Nghe đến đó bỗng thấy Diệp Sinh sụm xuống, chỉ còn áo mão một đống còn người đâu không thấy. Bây giờ mới rõ lại, lúc ông quan sai người mời Diệp Sinh theo về kinh thì Diệp Sinh đang đau nặng, và chỉ cái hồn xuất ra theo người mới, còn cái xác trơ bỏ lại cho vợ gói ghém tẩn liệm. Cho hay cái tinh anh của một người bất đắc chí nó mạnh dường thế. Không phải tôi ham chi chức huyện, vợ tôi sẵn tiền, tôi lại ghét làm lớn, phải chiều ý quan thầy làm nhiều điều dở, nhưng chuyện Diệp Sinh, tôi lúc ấy tin như có thật, và tưởng chừng mình là Diệp Sinh tái sanh.
Quả tôi là một thằng hư, mải than trời trách đất, và không biết an phận tuỳ duyên cũng không biết tuỳ thời. Tôi là thằng không biết điều. Đích thị là thằng hư.
Xin hỏi trong mấy chục anh thi đậu năm xưa, nay có anh nào được như mình chăng? Sức bực một ông lên như diều, làm tới phó Tổng thống, mà nay sự nghiệp để lại còn gì? Chẳng những hư, tôi quả là đui.
Nhưng sự đời nói không hết, hãy chờ hối sau phân giải.
Nực cười, khi bé, ước mong đủ chuyện, thì có câu "vãn lộ tao phùng".
Lên lão, thì có câu "Sấu địa sanh hoa vãn"
Số tôi có chữ "sấu" và có chữ "vãn", cũng là của trời cho.
Ồ, toàn là câu sáo, nhớ giỏi, ghép lại thành câu và làm tàng.
Dạ, đúng là đời tôi vậy.

Vân Đường phủ, ngày Ngọ tháng Ngọ năm Ngọ 20 tháng 5 âm lịch (25-6-1978).

Vương Hồng Sển (77 tuổi).

(Xem lại tháng 5 năm 1992)